Ý nghĩa của danh hiệu Phật Như Lai trong đạo Phật

Trong kinh điển Nikāya, Như Lai là tên gọi của đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni cùng với các vị Phật khác trong quá khứ. Các nhà Đại thừa trong kinh điển Theravada đã thêm danh xưng Tāthagata – Như Lai vào vị trí đầu tiên trong thập hiệu, bao phủ tất cả các danh xưng khác.

Theo Lời Phật tim hiểu

A. DẪN NHẬP.

Danh hiệu “Như Lai” là tên gọi đầu tiên trong danh sách cao quý của Phật, thường được hiểu là biểu tượng của sự thanh tịnh và hoàn hảo của mười phương chư Phật, bao gồm tất cả các đức tính cao đẹp và không bị ảnh hưởng bởi nghi ngờ như các danh hiệu khác. Mười danh hiệu này thể hiện công đức và sự đạt được giác ngộ của Phật.

Trong danh sách mười danh hiệu, danh hiệu “Như Lai” được xếp đầu tiên và là danh hiệu mà Đức Phật đã sử dụng để tự xưng khi còn sống. Tên gọi “Như Lai” bao gồm ý nghĩa về pháp thâm sâu, và những đặc tính tu chứng của Đức Phật. Danh hiệu này được sử dụng trong cả kinh điển nguyên thủy lẫn đại thừa. Nghiên cứu về danh hiệu “Như Lai” sẽ giúp hành giả hiểu rõ hơn về quả vị tu chứng của Đức Phật, từ đó trở thành một nguồn cảm hứng cho đường lối tu học và chứng nghiệm của chính mình, cũng như giúp đỡ những người khác vững bước trên con đường Bồ-tát hạnh.

B.NỘI DUNG.

1.ĐỊNH NGHĨA ”NHƯ LAI”.

1.1.Ngữ nguyên ”Như Lai”.

Từ “Như Lai” trong tiếng Saṅskrit ban đầu được gọi là “Tathāgata”, đây là một danh xưng của Đức Phật. Tathāgata được tách ra thành hai từ là tathā và āgata, có nghĩa là “Người đã đến như thế” hoặc “Người đã đến từ thế giới chân như”.

Thuật ngữ “Gata” có nghĩa là “đã đi” do nó là dạng động từ quá khứ bị động của động từ gốc “gam” (đi). “Agata” có nghĩa là “đã đến” vì nó là dạng động từ quá khứ bị động của động từ gốc “gam” (đến). “Tathā” có nghĩa là “giống như”, “tương tự như” hoặc “như thật”.

Nếu áp dụng phương pháp đầu tiên, thì ý nghĩa là tuân theo giáo lý Chân như để đạt được sự giác ngộ giống như Phật Niết bàn, do đó được gọi là Như khứ; trong khi đó, nếu áp dụng phương pháp thứ hai, ý nghĩa là đến từ sự thật và đạt được giác ngộ Chính giác, do đó được gọi là “Như Lai”. Bởi vì Phật tuân theo sự thật để đạt được giác ngộ và thân thể trong hình dạng của Chân như, nên Ngài được tôn xưng là “Như Lai”.

Dựa trên phân tích ngữ pháp Saṅskrit của nhà nghiên cứu Richard Gombrich, đuôi “-gata” trong hợp từ “Tathāgata” thường không có ý nghĩa đen và thay vì được hiểu là “được, đi, thành tựu/v.V..”; Do đó, thuật ngữ “Như Lai” sẽ được hiểu theo nghĩa “Nhất như”, không có sự dịch chuyển theo cả hai hướng.

1.2. Danh xưng ”Như Lai”: Trong thời đức của Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã sử dụng danh từ ”Tathāgata” thay vì các từ ngôi thứ nhất như ”ta”, ”tôi” – self, ego, trong khi giảng dạy và thuyết pháp, đồng thời thể hiện sự khiêm tốn của Ngài. Sau này, ”Tathāgata” – ”Như Lai” đã trở thành danh hiệu chỉ một Thánh nhân đã đạt đến bậc giác ngộ cao nhất, bậc Chính đẳng trong mười danh hiệu của một vị Phật. Trong các danh hiệu này, ”Như Lai” là danh hiệu được sử dụng phổ biến nhất.

Danh hiệu Như Lai trong Phật giáo

2. Ý NGHĨA ”NHƯ LAI”.

2.1. Thế nào gọi là ”Như Lai”.

Trong kinh Phật Thập hiệu Kinh có ghi: “A Nan bạch Phật: Kính bạch Thế Tôn! Trong mười danh hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chính Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thì thế nào là Như Lai? Phật nói: Này Bí-sô! Ta trước đây khi còn là Bồ-tát, vì mong muốn đạt được đạo quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác, đã tu tập tất cả các hạnh, nay đã chứng được cả tám Thánh đạo bằng Chính kiến nên được gọi là Như Lai. Như các Bậc Chính Đẳng Giác trong quá khứ đã tu tập vượt qua tâm, đạt đến Niết-bàn, cũng được gọi là Như Lai.” “Như Lai” là danh hiệu đầu tiên của đức Phật theo kinh Đại Thừa, bao hàm giá trị của tất cả các danh hiệu khác. Trong tạng kinh Pāḷi, mười danh hiệu của Phật thường được tụng đọc hàng ngày bao gồm: “Iti pi so Bhāgava Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjā-cārana-sampanno, Sugāto, Lokāvidu, Anuttāro, Purisa-dhamma-sārathi, Satthā-deva-manussānaṃ, Buddho, Bhāgava’ti”, dịch sang tiếng Việt: “Thật vậy, Đức Thế Tôn có danh hiệu Ứng cúng, Chính biến tri, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự Trượng phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.”

Trong sách kinh Bắc Tông, danh hiệu Như Lai được thêm vào đầu tiên và Hòa thượng Thích Trí Tịnh trong bộ Đại Bát Niết Bàn (Hán Tạng)[3] đã kết hợp danh hiệu “Phật – Thế Tôn” thành một, để lại Thập hiệu. Ở đây “Như Lai” là tư tưởng Bát nhã, bản chất của Phật giáo Đại thừa đó là Tính Không – Suññāya bao phủ tất cả các pháp giới.

Trong Kinh Đại Bảo Tích, “Như Lai” được miêu tả trong phẩm Pháp Hội: Vì chỉ có Như Lai có trí tuệ giải thoát cứu cánh Niết-bàn, không còn ai khác có thể giải thoát, và vì điều đó mà Như Lai được gọi là như thế. Vì Như Lai hiểu rõ tâm tư của các chúng sinh và thường thể hiện nó, nên Như Lai được gọi là như thế. Vì Như Lai đạt được tất cả căn bản của thiện pháp và loại bỏ tất cả căn bản của bất thiện, Như Lai được gọi là như thế. Vì Như Lai hay giảng giải con đường giải thoát cho chúng sinh, Như Lai được gọi là như thế. Vì Như Lai giúp chúng sinh an trụ trong đạo và tránh xa tà đạo, Như Lai được gọi là như thế. Vì Như Lai diễn thuyết nghĩa như thật của các pháp, Như Lai được gọi là như thế.

2.2.Như Lai và A La Hán.

Sự khác biệt giữa một vị Như Lai, một vị Phật toàn giác và một vị A La Hán được thể hiện trong kinh Tăng Chi Bộ: “Các Tỳ kheo ơi, Như Lai, A La Hán và Toàn Giác đều là những người có vai trò quan trọng trong việc khám phá và tạo ra con đường mới. Bậc Như Lai là người tạo ra con đường chưa từng tồn tại trước đó, là người đưa ra tuyên bố về con đường chưa từng được tuyên bố trước đó. Bậc ấy hiểu biết sâu sắc về thế gian, và là người thiện xảo trong hành trình khám phá con đường. Những đệ tử của bậc ấy sẽ đi theo con đường đó và đạt được sự chứng đắc”.

Các Tỳ kheo ơi, đây là sự phân biệt, sự không giống nhau, sự khác biệt giữa Như Lai, một vị Phật, và một Tỳ kheo được giải thoát bằng trí tuệ.

Do đó, ta có thể thấy rằng, Như Lai – bậc Toàn Giác là người đã khám phá ra sự thật, Ngài đã trải qua vô số kiếp nạn và có đầy đủ Tri, Tình, Dũng. Ngài chỉ giảng dạy con đường đến Niết bàn cho tất cả mọi người. Mặc dù Niết bàn của Như Lai và các A La Hán là giống nhau, nhưng công đức tu hành và sức mạnh thần kỳ không giống nhau.

2.3. Như Lai là bậc nói và hành tương ưng.

Trong Kinh Thánh Tịnh của Kinh Trường Bộ, Đức Phật đã nói về tính cách nói và hành động của Như Lai: “Cunda ơi, Như Lai nói gì thì làm đó, làm gì thì nói đó. Nói và làm đồng nhất như vậy được gọi là Như Lai. Với thế giới, với chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên, với chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, Như Lai là bậc Toàn Thắng, không ai có thể đánh bại được, là bậc Toàn Kiến, bậc Tự Tại”. [6].

Áp dụng đức tính tương ứng của Như Lai vào thực tế tu học, để đạt được tri thức thân cận tu học có giá trị, là điều rất quan trọng và có lợi ích thiết thực.

2.4. Thập lực Như Lai:.

Trong kinh Bi Hoa, đức Phật có thuyết giảng rất rõ ràng mười lực của Như Lai như sau:.

Tri thị xứ phi xứ trí lực (知是處非處智力, Pāli: ṭhānāṭhāna-ñāṇa): Hiểu rõ được tính khả thi và tính không khả thi trong mọi tình huống.

Tri tam thế nghiệp báo trí lực (知三世業報智力, Pāli: kammavipāka-ñāṇa): Hiểu rõ nguyên lý nhân quả (hoặc nghiệp quả), tức là hành động của người sẽ ảnh hưởng đến kết quả của ba đời sau.

Tri nhất thiết sở đạo trí lực (知一切所道智力, Pāli: sabbattha-gāminī-paṭipadāñāṇa): Biết rõ nguyên nhân dẫn đến sự tái sinh.

Tri chủng chủng giới trí lực (知種種界智力, Pāli: anekadhātu-nānādhātu-ñāṇa): Biết rõ các thế giới với những yếu tố hình thành.

Tri chủng chủng giải trí lực (知種種解智力, Pāli: nānādhimuttikatāñāṇa): Biết rõ cá tính của mỗi chúng sinh.

Hiểu được căn bản về đạo cao thấp của từng sinh vật là điều cần thiết cho trí lực và tâm tính của chúng ta (Tri nhất thiết chúng sinh tâm tính trí lực).

Tri chư thiền giải thoát tam-muội trí lực (知諸禪解脫三昧智力, Pāli: jhāna-vimokkha-ñāṇa): Biết rõ tất cả các phương thức thiền định.

Tri túc mệnh vô lậu trí lực (知宿命無漏智力, Pāli: pubbennivāsānussati-ñāṇa): Biết rõ các tiền kiếp của chính mình.

Tri thiên nhãn vô ngại trí lực (知天眼無礙智力, Pāli: cutūpapāta-ñāṇa): Biết rõ sự hoại diệt và tái sinh của chúng sinh.

Tri vĩnh đoạn tập khí trí thông minh (知永斷習氣智力, Pāli: āsavakkhaya-ñāṇa): Hiểu rõ cách kết thúc các tác động ô nhiễm. Các trí lực thứ 8, thứ 9 và thứ 10 cũng là Tam minh của đức Phật. [7].

2.5. Như Lai khởi sinh vì lợi ích số đông.

“Các Tỳ kheo ơi, Như Lai sinh ra trong thế giới này và là một A La Hán đã giác ngộ hoàn toàn. Ngài là thầy của thiên thần và con người, là bậc Toàn Giác và Thế Tôn. Ngài giảng dạy Giáo Pháp tốt đầu, giữa và cuối cùng, sử dụng từ ngữ và ý nghĩa chính xác, cho thấy một cuộc sống tâm linh hoàn hảo và trong sáng. Các Tỳ kheo ơi, đây là người đầu tiên sinh ra trong thế giới này để mang lại hạnh phúc và phúc lợi cho tất cả, và vì lòng bi mẫn đối với thế giới, để đem lại sự tốt lành, phúc lợi và hạnh phúc cho thiên thần và con người.” [8].

Tinh thần Đại thừa được hình thành chủ yếu từ tính cách của Như Lai. Bồ tát coi việc tha thứ làm niềm hạnh phúc, ngài tu hành đầy đủ và hoàn thành tất cả các Ba-la-mật mà không bao giờ quên cứu độ chúng sinh, bước vào tất cả các địa điểm trong thế giới.

2.6. Tính nhất như của Như Lai.

Cố Hòa thượng Tuyên Hóa đã viết bài kệ với câu: “Như như bất động tâm quân thái, Liễu liễu thường minh chủ nhân ông”. Câu này có nghĩa là không có pháp nào mà không giống như, tất cả các pháp đều giống như. Đây cũng là tâm chân như, không sinh không diệt, mọi phiền não đều không thể trở ngại. “Như như bất động” là định lực. “Tâm quân thái” là tâm an nhiên tự tại. “Liễu liễu thường minh chủ nhân ông” – rõ ràng biết, chủ nhân là Như Lai, tâm chân phật tính. Trong Luận Đại Trí Độ, tính nhất như của Như Lai được diễn giải rõ ràng: “Như Lai giống như, không ở trong quá khứ giống như, cũng không ở trong Như Lai giống như ở vị lai, vị lai giống như cũng không ở trong Như Lai, và hiện tại giống như cũng không ở trong Như Lai giống như. Quá khứ, vị lai, hiện tại giống như và Như Lai giống như, là nhất như, không hai không khác. Tất cả đều giống như Như Lai, từ Thí Ba-la-mật giống như đến Bát-nhã ba-la-mật giống như, từ nội không giống như đến vô pháp hữu pháp không giống như, từ bốn niệm xứ giống như đến Nhất thiết chủng trí giống như và Như Lai giống như, là nhất như không hai không khác. Tu-bồ-đề, vì Bồ-tát ma-ha-tát được giống như ấy nên gọi là Như Lai”.

“Như” trong “Như Lai” có nghĩa là tất cả, do đó khi nói về sắc pháp, ta nói như thế. Như Lai là duy nhất và không giống ai. Những người bình thường có thể có sự khác biệt, nhưng trong tầm nhìn của các vị thánh, không có sự khác biệt nào. Như Lai là một người thật sự đi trên con đường Phật pháp.

C. KẾT LUẬN.

Trong kinh điển Nikāya, Như Lai là tên gọi của đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni cùng với các vị Phật khác trong quá khứ. Các nhà Đại thừa trong kinh điển Theravada đã thêm danh xưng Tāthagata – Như Lai vào vị trí đầu tiên trong thập hiệu, bao phủ tất cả các danh xưng khác.

Các tác phẩm kinh điển và sách của các nhà nghiên cứu Tây phương nổi tiếng viết về Tāthagata – Như Lai cho thấy rằng các khía cạnh của Như Lai như cảnh giới, trí hạnh, gia trì, lực, vô úy, tam muội, sở trụ, tự tại, thân và trí của Như Lai, không được hiểu rõ bởi thế gian chư Thiên cùng người đời, không thể tín giải, rõ biết, nhẫn thọ, quán sát, giảng trạch, khai thị hay tuyên minh được. Chỉ có Chư Phật mới có thể giúp cho chúng sinh hiểu rõ, nhờ vào sức gia bị của họ, sức thiện căn đời trước của họ, sức nhiếp thọ của thiện tri thức, sức tinh tín sâu, sức minh giải lớn, sức tâm thanh tịnh xu hướng Bồ đề và sức nguyện rộng lớn cầu nhứt thiết trí. Việc hiểu rõ về nội hàm của danh hiệu “Như Lai” giúp cho hành giả có kiến thức sâu hơn về hạnh nguyện của chư Phật và làm hành trang cho mình trên con đường Bồ tát đạo hướng tới quả vị Vô thượng Bồ đề.

Kinh Trường Bộ, Thích Minh Châu (dịch),Viện Nghiên Cứu Phật Học.

Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 1991.

Kinh Đại Bát Niết Bàn còn được gọi là Phật Đà Da Xá Trúc Phật Niệm (Hán dịch) hay Tuệ Sỹ (Việt dịch), được sưu tầm trong Kinh Trường A – Hàm Tập 1, 17 và được xuất bản trong Tịnh Kinh Thanh của Tôn Giáo tại Hà Nội vào năm 2007.

Tập sách Phật Thuyết Thập Hiệu Kinh do Thích Tịnh Hạnh dịch, được xuất bản bởi Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn tại Đài Bắc – Taiwan vào năm 2000.

Tập 43 của bộ sách Bảo Tích II, được dịch bởi Thích Tịnh Hạnh, do Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc – Taiwan xuất bản vào năm 2000.

Ðại Bát Niết Bàn (Hán tạng),Thích Trí Tịnh (dịch), (Phẩm Phạm Hạnh) 1996.

Kinh Đại Bảo Tích – Quyển 90- Pháp Hội 24: Úc Ba Lợi, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn ở Đài Bắc – Đài Loan, 2000.

Luận Đại Trí Độ, Thích Thiện Siêu (dịch), Nxb. TPHCM,2001.

English.

Bhikkhu Bodhi (2005), Tuyển tập Lời dạy của Phật từ Kinh Tạng Pāḷi, được dịch bởi Nguyên Nhật Trần Như Mai, đã được xuất bản bởi Nhà xuất bản Hồng Đức vào năm 2015.

Edward Conze, The Perfection of Wisdom in 8,000 Lines, Sri Satguru Publications, Delhi, 1994.

Florin Giripescu Sutton (1991), Tồn tại và Giác ngộ trong Kinh Laṅkāvatāra: Một nghiên cứu về bản chất học và tri thức của trường phái Yogācāra trong đạo Phật Mahāyāna.

Peter Harvey, The Selfless Mind, Routledge Curzon Press, 1995.

Peter Harvey, An Introduction to Buddhism: Teachings, History, and Practices, Cambridge University Press, 1990.

Chú thích:.

[1] Trong Đại Tập 68 – Bộ Kinh Tập XV – Số 729 -> 804, Số 782 – Phật Thuyết Thập Hiệu Kinh của Thích Tịnh Hạnh, được xuất bản bởi Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc – Taiwan năm 2000, trang 803.

[2] Thích Minh Châu (dịch), 1991, Trường Bộ, quyển 1, Kinh Ðại Bát Niết Bàn, trang 573-574.

[3] Thích Trí Tịnh (dịch), 1996, Ðại Bát Niết Bàn (Hán tạng)”, tập 1, (Phẩm Phạm Hạnh), tr.585.

[4] Trích từ sách Đại Tập 43 – Bộ Bảo Tích II – Số 310 (Quyển 41 – 90), Kinh Đại Bảo Tích – Quyển 90- Pháp Hội 24: Ưu-Ba-Ly, của Thích Tịnh Hạnh, được xuất bản tại Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc – Taiwan năm 2000, trang 1092.

[5] SN 22:58; III 65 – 66.

[6] Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trường Bộ 2, 29. Kinh Thanh Tịnh, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 1991., Trang 467.

[7] Nguyễn Minh Tiến (Dịch và giải thích), Nguyễn Minh Hiển (Chỉnh sửa Hán Văn) Kinh Bi Hoa, Phẩm Thứ Hai Đà – La – Ni, Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội, 2011, Trang 104.

[8] Bộ sách Tỳ kheo Bồ-Đề (tuyển chọn) là tập hợp các kinh theo các chủ đề giáo lý, được dịch bởi Lê Kim Kha và xuất bản tại nhà xuất bản Hồng Đức vào năm 2017, có trang số 472.

[9] Thích Thiện Siêu, Luận Đại Trí Độ, Tập IV, Nxb. TPHCM,2001, tr.455.

[10] Thích Trí Tịnh (dịch), Kinh Hoa Nghiêm,Phẩm Nhập Pháp giới thứ 39, tr. 784.


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *