Việt Nam ở đâu trong sách thánh của Công giáo?Vị trí của Giáo Lý Công Giáo Việt Nam trong sách thánh Công giáo

Theo Lời Phật tìm hiểu Giáo Lý Công Giáo, hay còn gọi là Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo hoặc Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, là một tài liệu giáo lý được phê chuẩn bởi Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II vào ngày 25/06/1992 và được ban hành vào ngày 11/10/1992 nhân kỷ niệm 30 năm ngày khai mạc Công đồng Va-ti-ca-nô II. Cuốn sách này trình bày đầy đủ đức tin và đạo lý của Hội Thánh Công Giáo, được xác nhận và soi sáng bởi Thánh Kinh cũng như truyền thống tông đồ và huấn quyền của Hội Thánh.

Giáo Lý Công Giáo

Hình ảnh: Bìa cuốn Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo phiên bản Tiếng Anh, tái bản lần thứ hai.

Biểu tượng trên bìa được vẽ theo bức tranh khắc trên mộ đá trong hang toại đạo Domitilla ở Rô-ma vào cuối thế kỷ thứ ba. Hình ảnh người giáo sĩ này có nguồn gốc từ tín đồ, được các tín hữu thời đó sử dụng để miêu tả sự an nghỉ và niềm hạnh phúc mà linh hồn của những người đã khuất tìm thấy trong cuộc sống vĩnh cửu.

Hình ảnh đó cũng khơi gợi lên một số đặc điểm đặc trưng của Sách Giáo Lý này: Đức Chúa Jesus, người làm mục sư nhân từ, dẫn dắt và bảo vệ các tín đồ (những con chiên) bằng quyền năng của Ngài (cây gậy), thu hút họ bằng âm nhạc tinh tế của sự thật (sáo bè), và đem lại cho họ sự an nghỉ dưới bóng cây Thánh giá cứu chuộc, mà Ngài đã dùng để mở cửa thiên đàng.

Xin lưu ý rằng SÁCH GIÁO LÝ này sử dụng bản dịch Thánh Kinh của Nhóm Phiên Dịch CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ, với một số điều chỉnh nhỏ khi cần thiết để phù hợp với phong cách văn chương.

Nội dung tài liệu số 2267 về án tử hình đã được chỉnh sửa theo đề xuất từ Thánh Bộ Giáo lý Đức tin và đã được ĐGH Phan-xi-cô phê chuẩn vào ngày 11 tháng 5 năm 2018.

Hướng dẫn:.

Trong mỗi phần, nếu có các chú thích được đánh số, bạn hãy nhấn vào số tương ứng để xem thông tin và nhấn lại một lần nữa để quay lại đoạn văn gốc.

Bảng mục lục của tài liệu Giáo Lý Công Giáo

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT.

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM (KHO TÀNG ĐỨC TIN).

LỜI MỞ ĐẦU (1-25).

PHẦN THỨ NHẤT: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN (26-1065).

ĐOẠN THỨ NHẤT: ”TÔI TIN” – ”CHÚNG TÔI TIN” (26-184).

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI ”CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49).

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141).

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73).

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100).

Mục 3: Thánh Kinh (101-141).

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184).

Mục 1: Tôi tin (144-165).

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184).

TÍN BIỂU.

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065).

CHƯƠNG I: ”TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421).

Mục 1: ”Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421).

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231).

Tiết 2: Chúa Cha (232-267).

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278).

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324).

Tiết 5: Trời và đất (325-354).

Tiết 6: Con người (355-384).

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421).

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682).

Mục 2: ”Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455).

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô ”bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570).

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483).

Tiết 2: ”Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511).

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570).

Mục số 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “trải qua khó khăn trong thời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, bị đóng đinh trên cây thánh giá, qua đời và chôn cất” (571-630).

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594).

Tiết 2: Chúa Giê-su ”chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623).

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được ”táng xác” (624-630).

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô ”xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658).

Tiết 1: Đức Ki-tô ”xuống ngục tổ tông” (632-637).

Tiết 2: ”Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658).

Mục 6: Chúa Giê-su ”lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667).

Mục 7: ”Ngày sau bởi trời”, Người ”lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682).

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065).

Mục 8: ”Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747).

Mục 9: ”Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975).

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780).

Tiết 2: Hội Thánh – Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810).

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870).

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945).

Tiết 5: ”Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477].

Tiết 6: Đức Ma-ri-a – Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975).

Mục 10: ”Tôi tin phép tha tội” (976-987).

Mục 11: ”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019).

Mục 12: ”Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060).

”Amen” (1061-1065).

PHẦN THỨ HAI: CỬ HÀNH MẦU NHIỆM KI-TÔ GIÁO (1066-1690).

ĐOẠN THỨ NHẤT: NHIỆM CỤC BÍ TÍCH (1076-1209).

CHƯƠNG I: MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG THỜI ĐẠI CỦA HỘI THÁNH (1077-1134).

Mục 1: Phụng vụ – Công trình của Ba Ngôi Chí Thánh (1077-1112).

Mục 2: Mầu nhiệm Vượt Qua trong các bí tích của Hội Thánh (1113-1134).

CHƯƠNG II: CỬ HÀNH MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG CÁC BÍ TÍCH (1135-1209).

Mục 1: Cử hành phụng vụ của Hội Thánh (1136-1199).

Mục 2: Nhiều phụng vụ khác nhau và một mầu nhiệm duy nhất (1200-1209).

ĐOẠN THỨ HAI: BẢY BÍ TÍCH CỦA HỘI THÁNH (1210-1690).

CHƯƠNG I: CÁC BÍ TÍCH KHAI TÂM KI-TÔ GIÁO (1212-1419).

Mục 1: Bí tích Rửa Tội (1213-1284).

Mục 2: Bí tích Thêm Sức (1285-1321).

Mục 3: Bí tích Thánh Thể (1322-1419).

CHƯƠNG II: CÁC BÍ TÍCH CHỮA LÀNH (1420-1532).

Mục 4: Bí tích Thống Hối và Giao Hòa (1422-1498).

Mục 5: Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (1499-1532).

CHƯƠNG III: CÁC BÍ TÍCH PHỤC VỤ SỰ HIỆP THÔNG (1533-1666).

Mục 6: Bí tích Truyền Chức Thánh (1536-1600).

Mục 7: Bí tích Hôn Phối (1601-1666).

CHƯƠNG IV: NHỮNG CỬ HÀNH PHỤNG VỤ KHÁC (1667-1690).

Mục 1: Các á bí tích (1667-1679).

Mục 2: An táng theo nghi thức Ki-tô Giáo (1680-1690).

PHẦN THỨ BA: ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ (1691-2557).

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051).

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876).

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715).

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729).

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748).

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761).

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775).

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802).

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845).

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876).

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948).

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896).

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927).

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948).

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051).

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986).

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029).

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051).

MƯỜI ĐIỀU RĂN.

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN. (2052–2557)

CHƯƠNG I: ”NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195).

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141).

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167).

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195).

CHƯƠNG II: ”NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557).

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257).

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330).

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400).

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463).

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513).

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533).

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557).

PHẦN THỨ TƯ: KINH NGUYỆN KI-TÔ GIÁO (2558-2865).

ĐOẠN THỨ NHẤT: KINH NGUYỆN TRONG ĐỜI SỐNG KI-TÔ HỮU (2558-2758).

CHƯƠNG I: MẶC KHẢI VỀ CẦU NGUYỆN (2566-2649).

Mục 1: Trong Cựu Ước (2568-2597).

Mục 2: Khi thời gian viên mãn (2598-2622).

Mục 3: Trong thời của Hội Thánh (2623-2649).

CHƯƠNG II: TRUYỀN THỐNG CẦU NGUYỆN (2650-2696).

Mục 1: Những nguồn mạch của kinh nguyện (2652-2662).

Mục 2: Con đường cầu nguyện (2663-2682).

Mục 3: Những người hướng dẫn cầu nguyện (2683-2696).

CHƯƠNG III: ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN (2697-2758).

Mục 1: Những cách diễn đạt việc cầu nguyện (2700-2724).

Mục 2: Cuộc chiến đấu của việc cầu nguyện (2725-2745).

Mục 3: Lời cầu nguyện trong Giờ của Chúa Giê-su (2746-2758).

ĐOẠN THỨ HAI: LỜI KINH CỦA CHÚA: KINH LẠY CHA (2759-2865).

Mục 1: ”Bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng” (2761-2776).

Mục 2: ”Lạy Cha chúng con ở trên trời” (2777-2802).

Mục 3: Bảy lời cầu xin (2803-2854).

Mục 4: Vinh tụng ca kết thúc (2855-2865).

Mục đích và mục tiêu của Tài liệu Giáo lý

Cuốn sách Giáo Lý này chủ yếu được viết cho những người có trách nhiệm giảng dạy giáo lý, bao gồm Giám mục, giáo sư đạo học và các thành viên của Hội Thánh. Cuốn sách được cung cấp cho họ như một công cụ hữu ích để giúp họ hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy cho những người theo đạo Thiên Chúa. Thông qua Giám mục, cuốn sách được chuyển đến những người viết sách giáo lý, các linh mục và giáo viên giáo lý. Đọc cuốn sách này cũng sẽ hữu ích cho tất cả các tín hữu Kitô khác. — Số 12.

Cuốn sách Giáo Lý này không có mục đích thay thế các sách Giáo Lý địa phương được phê chuẩn bởi giáo quyền, Giám mục giáo phận và Hội đồng Giám Mục, đặc biệt là khi đã được Tòa Thánh phê chuẩn. Cuốn sách này nhằm khuyến khích và hỗ trợ việc soạn thảo các sách Giáo Lý mới tại mỗi địa phương, dựa trên hoàn cảnh và văn hóa khác nhau, nhưng vẫn chú trọng đến sự đồng nhất trong đức tin và lòng trung thành với đạo lý công giáo. — Trích Tông hiến Fidei Depositum.

Các thiết bị điện tử cần được tuân thủ nghiêm ngặt để tránh tai nạn và hư hỏng thiết bị.Cần tuân thủ chặt chẽ các chỉ dẫn thực hiện khi sử dụng các thiết bị điện tử để tránh sự cố đáng tiếc và hư hỏng tài sản.

Số 18-22:.

Cuốn sách Giáo Lý được xem là một bản trình bày rõ ràng về tất cả các nguyên lý của đức tin Công giáo. Do đó, người đọc cần đọc nó như một thể thống nhất. Bằng cách sử dụng các hướng dẫn bên ngoài bản văn (những con số nhỏ in quy chiếu đến các đoạn văn khác cùng chủ đề) và bảng mục lục được đặt ở cuối sách, người đọc có thể thấy được sự liên quan của mỗi chủ đề với toàn bộ đức tin.

Thường thì các đoạn văn trong Thánh Kinh không được trích nguyên văn, nhưng chỉ ghi xuất xứ ở cước chú (bằng ký hiệu ”X.”). Để hiểu sâu sắc hơn về những đoạn văn ấy, cần phải tìm đến các bản văn gốc. Những tham chiếu đến Thánh Kinh này là một công cụ hữu ích trong việc giảng dạy giáo lý.

Các đoạn chữ nhỏ xuất hiện tại một số vị trí là thông tin về lịch sử, giáo dục hoặc là thông tin bổ sung về đức tin.

Những đoạn trích dẫn in nhỏ, được trích từ các tác phẩm của các Giáo sĩ, các bản văn phụng vụ, các văn kiện của Huấn quyền và từ Hạnh các Thánh, được sử dụng để bổ sung cho nội dung giáo lý. Những bản văn này thường được lựa chọn để dùng trực tiếp trong quá trình giảng dạy giáo lý.

Kết thúc mỗi bài giảng đều có chủ đề chung và những câu tóm tắt ngắn gọn nhằm tóm lược những điểm chính của giáo lý. Những câu tóm tắt này cung cấp cho giáo viên những công thức tổng hợp và dễ nhớ để dạy giáo lý tại các địa phương.

Tìm hiểu thêm: Lời hay ý đẹp trong Kinh Thánh có tác dụng gì?

Các sự thích nghi cần được thực hiện khi tiến hành đọc.

Số 23, 24:.

Cuốn sách Giáo Lý này tập trung vào việc trình bày giáo lý, với mục đích giúp hiểu sâu hơn về đức tin. Nhờ đó, đức tin sẽ trưởng thành và gắn bó sâu hơn với cuộc sống, phản ánh rõ ràng trong việc sống đạo.

Vì mục đích đó, Sách Giáo Lý này không cố gắng áp đặt các phương pháp giáo lý hoặc cách trình bày giáo lý theo yêu cầu của các nhóm văn hóa, độ tuổi, trình độ tinh thần, tập quán xã hội và giáo hội của học viên. Những thích nghi cần thiết như vậy nên được thực hiện bởi sách giáo lý địa phương và đặc biệt là các giảng viên Công giáo.

“Người có trách nhiệm giảng dạy phải trở thành người đa tài để thu hút mọi đối tượng về Đức Ki-tô…” (1 Cr 9,22). Đừng nghĩ rằng những người được giao nhiệm vụ giảng dạy đức tin chỉ có một kiểu người duy nhất, do đó không thể áp dụng cùng một phương pháp và phong cách giảng dạy cho tất cả các tín đồ. Vì có những người giống như trẻ sơ sinh, những người đang phát triển trong Đức Ki-tô và những người đã trưởng thành một cách nào đó, vì vậy cần phải quan tâm và đáp ứng nhu cầu của từng người, giống như cách nuôi dưỡng trẻ em, cần phải biết ai cần sữa, ai cần thức ăn cứng hơn… Đây là lời Thánh Tông Đồ truyền lại cho những người được gọi vào tác vụ này, để khi dạy các mầu nhiệm đức tin và các quy luật sống, họ có thể thích nghi với tinh thần và trí hiểu của người nghe.”.

Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (2009) trích từ Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo.

Ngoài ra, trong khi trình bày lại bố cục cuốn Giáo lý này, con đã thực hiện một số công việc:.

1. Chuyển các tên riêng, địa danh sang chữ phiên âm Latin có dấu gạch ngang như trong Kinh Thánh bản dịch của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ.

2. Bổ sung hình ảnh đầu các phần dựa theo bản dịch Tiếng Anh của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ.

3. Khi đưa các phần chữ nhỏ (trích dẫn, chú thích) lên web, chúng sẽ được hiển thị với kích cỡ thông thường để dễ đọc.

4. Sửa từ ”tiên tri” trong số 871-945 thành ”ngôn sứ [tiên tri]”.

5. Thay đổi lại nội dung số 2267 về án tử hình. Trong buổi gặp gỡ vào ngày 11 tháng 5 năm 2018 dành cho Tổng trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin ký, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã chấp thuận bản dự thảo mới của số 2267 trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo và cho phép bản văn này được dịch sang các ngôn ngữ khác và đưa vào trong mọi ấn bản của Sách Giáo Lý. Chi tiết:

Bản cũ:.

Giáo lý truyền thống của Hội Thánh, sau khi đã kiểm chứng đầy đủ tính chất và trách nhiệm của tù nhân, không loại trừ khả năng tuyên án tử hình, nếu đây là cách duy nhất để bảo vệ hiệu quả tính mạng con người khỏi bị vi phạm một cách bất công.

Tuy nhiên, nếu các phương tiện không đủ để bảo vệ và đảm bảo sự an toàn cho các cá nhân khỏi kẻ xâm phạm, thì nhà lãnh đạo nên sử dụng những phương tiện này vì chúng phù hợp hơn với hoàn cảnh cụ thể của công ích và phù hợp với giá trị của cá nhân.

Thực tế, trong thời đại hiện nay, vì Nhà Nước có nhiều khả năng để kiểm soát tội ác một cách hiệu quả, làm cho tội phạm không còn có thể gây nguy hiểm, mà không phải lấy đi khả năng chuộc tội của họ, nên việc giết người tù đang ngày càng trở nên hiếm hơn, có thể nói là không còn được sử dụng trong thực tế nữa. (ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Evangelium vitae, 56: AAS 87 (1995) 464.)

Bản mới:.

Việc sử dụng án tử hình bởi chính quyền, sau khi đã xét xử công bằng, đã được coi là một giải pháp phù hợp với tính nghiêm trọng của một số tội ác và là một cách bảo vệ công lý có thể được chấp nhận, mặc dù khắc nghiệt.

Tuy nhiên, ngày nay, chúng ta ngày càng nhận thức được rằng giá trị của con người không bị mất đi ngay cả sau khi họ đã phạm những tội ác rất nghiêm trọng. Hơn nữa, một sự hiểu biết mới về ý nghĩa của các án phạt hình sự được chính quyền áp dụng đã rõ ràng hơn. Cuối cùng, các hệ thống giam giữ hiệu quả hơn đã được phát triển, đảm bảo an ninh cho công dân, đồng thời không loại bỏ khả năng cải tạo của tù nhân mãi mãi.

Do đó, dựa trên tinh thần của Tin Mừng, Giáo hội khẳng định rằng “án tử hình không thể chấp nhận được vì đây là một hành động tấn công vào tính mạng và phẩm giá của con người” (ĐGH Phan-xi-cô, Diễn văn cho các tham dự viên tại cuộc hội nghị do Hội đồng Giáo Hoàng Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hóa tổ chức (11-10-2017): L’Osservatore Romano (13-10-2017), 5.). Giáo hội quyết tâm thúc đẩy việc loại bỏ án tử hình trên toàn cầu.

Thông tin thêm: Việc đổi mới số 2267 trong sách Giáo lý Giáo hội Công Giáo về án tử hình.

Cuối cùng, vì biết rằng không thể tránh khỏi lỗi trong quá trình sao chép và đăng tải, tôi mong muốn mọi người có thể góp ý và báo lỗi giúp tôi thông qua link hoặc địa chỉ mail cuối trang web, để bản văn trực tuyến của Sách Giáo Lý này được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *