Về số lượng Tổ Tây Thiên liên kết với Tiểu thừa có 28 và tổ Đông Đô Độ liên kết Đại thừa có 6, trong đó Bồ Đề Đạt Ma đồng thời là Tổ Tây Thiên cuối cùng và Tổ Đông Độ đầu tiên, vì vậy tổng cộng có 33 vị, tuy nhiên chùa Tây Phương chỉ lựa chọn 18 vị để tạo tượng bằng gỗ. Nhìn chung, các tượng đều được tạo theo một phong cách, cùng mặc áo cà sa như nhau, nhưng nếp áo của mỗi vị theo tư thế ngồi hoặc đứng khác nhau để tôn vinh tâm đạo và trí tuệ.
Theo Lời Phật tìm hiểu, Tượng có tư thế đứng, ngồi, có vươn lên, có trải rộng để tạo ra nhịp điệu. Dưới bàn tay của những nghệ nhân tài giỏi, tượng nào cũng sống động và tinh tế. Theo tiểu sử của từng vị Tổ, mỗi vị có một cá tính riêng, một cuộc sống riêng tư đầy đời thường, có niềm vui, có nỗi buồn, có đam mê, có trở ngại, có niềm hạnh phúc… Do đó tượng các vị Tổ đều là sự biểu trưng, kết hợp tất cả những đặc điểm riêng biệt theo cùng một hướng để làm nổi bật cả sự thực và sự tôn thần của tượng.
Tượng Tổ thứ nhất (Ngài Ma Ha Ca Diếp tôn giả) và thứ hai (Ngài A Nan Đà tôn giả)
Tượng Tổ một và hai được đặt trên Phật điện, cùng hàng với tượng Tuyết Sơn. 16 tượng Tổ còn lại được đặt ở hai gian bên tả và hai gian bên hữu tòa cuối cùng của chùa chính, bao gồm:.
Tượng Tổ thứ 3: Tôn kính Người đã qua đời

Các tài liệu từ trước đến nay đều mô tả ngài ngồi bên bàn đá tham gia cuộc trò chuyện với Ưu Ba Cúc Đa với tư thế của một nhà triết học hiền lành. Tượng Thương Na Hòa Tu ở chùa Tây Phương theo theo hình mẫu, ngồi thẳng và co chân, một tay đặt trên đùi, một tay giữ trong bọc, mặc áo có nhiều nếp để lộ ngực gầy và xương sườn, đôi mắt thâm, miệng ít nói nhưng khuôn mặt luôn biểu lộ sự nội tâm đau đáu. Tượng như đang có ai đó phía trước để ngài quan sát và suy ngẫm.
Tượng Tổ thứ 4: Ưu Ba Cúc Đa tôn giả.

Trong những quyển sách cổ, Tổ Ưu Ba Cúc Đa được vẽ đang tập trung ngồi đọc sách, sách trên tay, sách dưới đất, có khi còn thêm một số thẻ tre. Tượng ở chùa Tây Phương vẫn giữ dáng ngồi trong hình vẽ nhưng có vẻ nhấp nhổm trên gót chân trái quỳ gấp lại, còn chân phải gấp chống làm điểm tựa cho bàn tay cầm thẻ tre đánh dấu thành tích thuyết pháp. Tượng có đầu to, trán cao, hói quá đỉnh biểu hiện sự thông minh, mắt tròn sáng mở to nhìn xa tập trung, phối hợp với cái miệng há mở như đang thuyết giảng với sự hấp dẫn đến mê hoặc người nghe. Gương mặt tượng với đôi lông mày to đậm, râu quai nón, tai dài, cánh mũi to gây ấn tượng sâu đậm cho người xem, các khối trên cơ thể căng tròn biểu thị sự sung mãn cả về trí lực và trí tuệ. Mặc dù là một tượng đơn nhưng sự sống động của Tổ khiến chúng ta cảm nhận như có cả một cộng đồng phía trước.
Tượng Tổ thứ 5: Đề Đa Ca tôn giả -> Tượng Tổ thứ 5: Đề Đa Ca kính trọng giả

Trong các tài liệu cổ, có sách vẽ ngài đứng chắp tay thờ lễ các vị thần trên bầu trời, có sách vẽ ngài ngồi nhìn lên không gian. Tượng Đề Đa Ca tại chùa Tây Phương trong tư thế ngồi thiền đang thờ lễ, tất cả được thể hiện trong khối hình đóng kín, đường viền rõ ràng, mảng khối sáng bóng, các nếp áo đi kèm, tất cả biểu thị sự sáng sủa, nhưng khuôn mặt lại trầm tư như đang chờ đợi giải mộng, thu hút cuộc sống vào tâm hồn.
Tượng Tổ thứ 6: Di Giá Ca tôn giả được thay thế bằng: Tượng Tổ thứ 6: Di Giá Ca tôn giả

Trong các văn bản cổ đều vẽ cảnh Di Giá Ca nói chuyện với Bà Tu Mật, đứng hoặc ngồi, chắp hai tay lễ. Tượng Di Giá Ca ở chùa Tây Phương ở một tình huống khác. Ngài đứng chắc chắn, một tay thu trong áo, một tay bấm độn, khuôn mặt ngơ ngác muốn tìm hiểu điều gì đó. Và như vậy, người xem cảm nhận trước mặt ngài như có cảnh lạ hay ai đó đang đối thoại, hình tượng yên lặng nhưng nội tâm lại sôi động.
Tượng Tổ ngày thứ 7: Bà Tu Mật tôn giả.

Trong các tài liệu cổ đều vẽ Bà Tu Mật đứng cứng, nhìn lên trời, hai tay chắp lại đặt trên ngực, phía trước là một bàn đá có đỉnh trầm. Tượng Bà Tu Mật ở chùa Tây Phương được chạm theo hình mẫu trong các tài liệu cổ, tư thế đứng cứng, mặt hơi ngửa, miệng mở vừa, chắp tay đặt lên biểu hiện động tác chào và cầu chúc theo phong cách của nhà Phật với lời.
”A Di Đà…Phật”. Tư thế nghiêm túc, ăn mặc gọn gàng, đầu tóc buộc lại, áo chảy mượt mà, cổ tay đeo vòng móc vào ống tay áo để khi chào không bị trượt, là Tổ duy nhất có răng vàng. Miệng đang há vừa phải và kéo dài để chuẩn bị khép với từ ”Phật”. Rõ ràng trước tượng Bà Tu Mật, chúng ta cảm thấy có ai đó mà Tổ gặp và cầu chúc cho họ những lời tốt đẹp. Ở đây, ngoại hình không chỉ đúng mực mà còn giúp nội tâm trong sáng.
Tượng Tổ thứ 8: Phật Đà Nan Đề tôn giả được thay thế bằng:Tượng Tổ thứ 8: Phật Đà Nan Đề tôn giả đã được thay thế.

Trong các tài liệu cổ, đều có hình vẽ Tổ thứ 8 – Phật Đà Nan Đề người mập mạp, ngồi nghiêng dựa vào gốc cây, chân phải đặt ngang, chân trái chống nghiêng, tay trái đặt trên đùi, tay phải đang ngoáy tai. Tổ mặc áo hở ngực và bụng, quần dài được buộc gấu như đăng ten, cổ tay đeo vòng. Tượng Tổ thứ 8 ở chùa Tây Phương được đặt ở góc bên ngoài, bên phải của tòa chùa, được thiết kế theo hình trong sách “Thiền Uyển Kế Đăng Lục” tạo nên một khối hình tròn, sáng bóng, khuôn mặt hài lòng, đôi mắt sáng sủa, miệng cười thân thiện, khuôn mặt tươi sáng, tất cả thể hiện sự thông minh, nhẹ nhàng và dễ gần. Đây là bức tượng đặc biệt sống động, dù cái que bị mất nhưng vẫn luôn gợi lên động tác ngoáy tai, ngoài việc kích thích còn thể hiện sự giao tiếp và ứng xử văn hóa lịch sự.
Tìm hiểu thêm: Tượng tổ kế đăng tại chùa Tây Phương
Tượng Đức Tổ thứ 9: Phật Đảnh Mật Đa tôn hóa

Trong các tài liệu cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 9 – Phục Đà Mật Đa ngồi tựa mỏm đá, tay phải chống cây tích trượng, mắt chăm chú nhìn xuống đất, bên cạnh là bàn thờ đá có đỉnh trầm đang đốt. Tượng Phục Đà Mật Đa ở chùa Tây Phương được tạc theo hình mẫu vẽ trong sách cũ, cây tích trượng bị mất nhưng tư thế tay không thay đổi, chỉ thêm cuốn sách bên tay trái mà ánh mắt đang hướng tới. Miệng há mở phối hợp với ánh mắt đang khám phá ở trang sách những điều thú vị, gương mặt vừa hồ hởi lại vừa như ngơ ngác trước những điều mới lạ mà ở tuổi 50 mới được biết. Áo mặc hở nửa ngực, nhiều nếp nhăn không cùng hướng cũng đều chứng tỏ nhân vật có tâm lý phức tạp.
Tượng Tổ thứ 10: Hiệp tôn ngụy

Trong các tài liệu cổ liên quan, đều có hình vẽ Hiệp tôn giả đứng bên gốc cây nhìn xuống Phú Na Dạ Xà chắp tay thi lễ. Tại chùa Tây Phương, tượng Hiệp tôn giả được tạo theo mẫu vẽ trong sách, nhưng nhấn mạnh vẻ trẻ trung và sức sống của tuổi đời, mắt tròn sáng như nhìn sâu vào tâm can của mọi người, miệng ít nói, người giàu nghị lực. Để tôn vinh nhân vật, cây khô nhiều hốc được sử dụng để tạo sự tương phản. Hình tượng đứng vững chắc, các mảng căng mịn, gợi lên sự hùng vĩ của nhân vật.
Tượng Đại Tổ thứ 12: Mã Minh tôn giả.

Trong các tài liệu cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 12 – Mã Minh tôn giả đang ngồi tựa tay phải lên một tảng đá, mặc chiếc áo rộng trên vai, để lộ cả ngực và bụng, đầu hói hoàn toàn, râu dày đặc, tai đeo một chiếc vòng lớn, khuôn mặt hơi ngẩng lên nhìn con rồng nổi lên trong mây và giơ móng vuốt ra đe dọa. Tại chùa Tây Phương, tượng Tổ Mã Minh tôn giả được đặt ở cuối dãy hồi bên trái của tòa chùa, được chạm theo mẫu vẽ trong sách cũ, tuy nhiên có sự sáng tạo về chi tiết.
Gắn con rồng vào Tổ thành một khối, đặt nó xuống thấp ngang bệ ngồi và tặng cho nó vẻ hiền hòa để phù hợp với tâm lý của người Việt, người ta coi rồng là một con vật linh thiêng mang lại điềm lành. Tổ ngồi bình thản thả thõng chân phải và hơi co chân trái nhưng đều chạm đất, thân hơi ngả về phía sau và chống thẳng tay phải tạo ra một tư thế vững vàng không mỏi, tay cái gấp vuông đặt ngang trước bụng và chỉ về con rồng. Đầu tượng tròn, cạo trọc để tạo ra các khối căng đầy sức sống, tai dài chạm vai, mắt nhìn thẳng vào đối tượng cùng với miệng há biểu hiện đang tranh luận, mắt rất tươi, trên thân hình da dẻ căng óng khỏe mạnh. Tổ tràn đầy tự tin, thông minh, điềm tĩnh, hòa hợp với mọi người.
Tượng Tổ thứ 13: Ca Tỳ Ma La tôn hình

Trong các tài liệu cổ liên quan, đều miêu tả Tổ thứ 13 – Ca Tỳ Ma La tôn giả đang di chuyển trong khu vực núi, bị con rắn mãng xà cuốn quanh cơ thể. Tại chùa Tây Phương, tượng Ca Tỳ Ma La được chạm theo hình mẫu miêu tả trong sách, nhưng ngài không tranh cãi, đứng thẳng như mọc từ đất lên mặc dù bị gió thổi áo bay đi, cũng không chú ý đến sự đe dọa từ những con rắn mãng xà, khuôn mặt bình thản và tự tin, đôi mắt sáng nhìn xa. Toàn bộ tượng Ca Tỳ Ma La tôn giả được chạm bằng những khối hình tròn, bóng bẩy, những nếp gấp của áo cũng được làm lỏng và bay theo hướng của khối, hình tượng đóng băng nhưng lại rất sống động.
Tượng Tổ thứ 14: Long Thụ tôn giả được hoạt động như một công cụ rewrite tiếng Việt, sử dụng từ đồng nghĩa phù hợp ngữ cảnh để thay thế các từ trong đoạn văn.

Trong các tư liệu cổ liên quan đều vẽ Tổ thứ 14 – Long Thụ tôn giả đang ngồi suy tưởng trên bông sen, trên đầu nghĩ về vầng trăng tròn sáng, dưới nước có rồng đội kính. Tại chùa Tây Phương, tượng Long Thụ tôn giả được chạm ngồi trên đài sen cao 30cm, tạo thành một khối chóp vững chắc nhưng đáy lại có đường cong của tòa sen, tạo nên sự sinh động và chao đảo. Vạt áo tượng kéo xuống hai bên tòa sen để tượng và bệ (tòa sen) gắn kết thành một khối hoàn chỉnh. Tượng nhắm mắt, ngồi suy tưởng thiền, hình thức trang nghiêm và yên tĩnh, khoác áo cà sa để lộ bộ ngực gầy, biểu hiện dáng vẻ nhà hiền triết tập trung suy ngẫm, coi nhẹ cuộc sống thường ngày. Tượng có đường viền rõ ràng, bố cục đối xứng hai nửa phải, trái, nhưng nếu nhìn kỹ lại, ta thấy nó trở nên nhạt nhòa chỉ còn là hình dạng mờ nhạt trong vẻ sáng yếu. Bên cạnh tượng Long Thụ còn có hình rồng đội một hộp kính nhắc lại câu chuyện Đại Long cho kinh Hoa Nghiêm.
Tượng Tổ thứ 16: La Hầu La Đa tôn kính giả

Trong các tư liệu cổ liên quan đều hình dung Tổ thứ 16 – La Hầu La Đa tôn giả đang ngồi tự nhiên trên tảng đá, hai ta tỳ cây gậy tích trượng để nhô người về phía trước, bên cạnh có con hươu. Tại chùa Tây Phương, tượng La Hầu La Đa tôn giả được tạo theo mẫu trong các sách xưa, chỉ thay chi tiết tay phải để lên đùi. Là con vị trưởng giả, La Hầu La Đa y phục chỉnh tề, đầu chít khăn, vẻ mặt đăm chiêu, mắt nhìn xa xăm, miệng mím lại dù môi mỏng khéo nói, chiếc gậy giờ đây cầm hờ một tay biểu thị quyền uy chứ không phải làm điểm tỳ, các móng tay dài ăn chơi, áo nhiều nếp vặn vẹo cũng biểu thị tâm lý dằn vặt. Con hươu bên cạnh như gợi vườn lộc uyển về sự thuyết giảng của Tổ. Đây là một bức tượng rất thành công về ngoại hình kết hợp với một tâm lý phức tạp.
Tượng Tổ thứ 17: Tăng Già Nan Đề tôn hình

Theo dõi tình trạng của Tổ để tìm hành động đặc trưng, trong các tài liệu cổ liên quan đều đồng ý vẽ Tổ thứ 17 – Tăng Già Nan Đề tôn giả đang ngồi tu hành bên dốc núi, gần bờ sông.
Tại chùa Tây Phương, bức tượng Tăng Già Nan Đề được chạy theo mô hình vẽ trong sách cổ, toàn thân thu gọn trong chiếc áo choàng từ cổ xuống đất với những nếp gấp chảy theo hướng xuôi, mặt trước chỉ để lộ khối chân phải gập nằm và chân trái gập đứng, đầu nghiêng lên hai bàn tay đặt lên đầu gối. Đầu tượng tròn, đỉnh đầu nhô lên như một cái núi, tai rất dài đeo khuyên, mắt nhắm nửa, mũi to, miệng mỉm cười, gương mặt sáng rỡ. Cách ngồi của Tăng Già Nan Đề giống như ngồi chơi, không tuân theo công thức tọa thiền. Bức tượng tạo cảm giác sóng nước, lại có một phần thú như trong thiên nhiên hoang sơ ở nơi Tổ định cư. Hình ảnh thu nhỏ, đường viền rõ ràng, các phần lớn chảy xuôi kết hợp với các phần nhỏ hẹp tạo nên sự cân đối và vững chãi cho toàn bộ tác phẩm. Đây là một tác phẩm có cấu trúc rất gọn gàng.
Tượng Tổ thứ 18: Lão Da Xá Đa tôn giả

Trong các tài liệu cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 18 – Già Da Xá Đa tôn giả đang đi theo hướng gió cuốn, tay trái cầm gương soi phía sau, tay phải gấp, vặn cây gậy đeo cuốn kinh. Ở chùa Tây Phương, tượng Già Da Xá Đa tôn giả được chạm theo hình mẫu vẽ trong sách cổ, ống tay áo và vạt áo thổi bay theo hướng gió mạnh về phía trước, nhưng người vẫn đứng thẳng, chân như nhún và tay đong đưa. Mắt tượng hấp dẫn và miệng há như đang hỏi han, mũi rộng, má đầy, tai dài, người đầy chắc. Khối tượng cứ như nhấp nhô tiến dần về phía trước, sự sống động của cái thực và cái thần kết hợp vào nhau.
Tượng Tổ thứ 19: Cưu Ma La Đa tôn giả

Trong các tài liệu cổ liên quan, Tổ thứ 19 – Cưu Ma La Đa tôn giả được vẽ đồng nhất, có vẻ béo đẫy, ngồi thoải mái, tay phải cầm gậy tích trượng, tay trải để trên đùi. Tại chùa Tây Phương, tượng Cưu Ma La Đa tôn giả được tạo theo mô hình vẽ trong sách cổ, nhưng ở đây người ta thấy hồ hởi, lãng mạn, rất yêu đời, tay phải cầm đóa hoa thay vì cầm gậy. Khối tượng bao gồm các mảng tròn căng, bóng, mặc áo phanh hở ngực và bụng để phối hợp với khuôn mặt cười rạng rỡ. Hình dáng của tượng rất thực và tạo ra một tinh thần vui vẻ, thể hiện tốt ngôn ngữ của khối mảng.
Tượng Thủ tướng thứ 20: Xà Dạ Đa tôn báu

Trong các tài liệu cổ liên quan, đồng nhất vẽ Tổ thứ 20 – Xà Dạ Đa tôn giả mặc áo cà sa hở nửa lưng, ngồi hơi cúi, uốn cong cổ về phía trước, tay phải cầm que dài gãi lưng. Tại chùa Tây Phương, bức tượng Xà Dạ Đa được tạo theo hình mẫu trong sách nhưng tập trung mô tả các phần cơ thể để nhấn mạnh cảm giác ngứa đang làm đau một cơ thể gầy yếu nhưng có sức mạnh bên trong, được thể hiện ở cái đầu to, tròn, trán thông minh. Mắt tượng nhìn chằm chằm cùng với miệng kín lại, phối hợp với các nếp nhăn trên trán, góc mắt và góc miệng để thể hiện tuổi tác cao và sự suy nghĩ sâu sắc. Tượng có khuôn mặt dài và xương xẩu, cổ uốn cong với các khoang, ngực trần với các xương sườn, bụng nhăn nheo với nhiều nếp da nhăn để tạo ra sự chính xác về cấu trúc cơ thể, sự căng thẳng tâm lý và sự sâu sắc về trí tuệ. Đây là một tác phẩm thành công về cuộc sống của người lao động.
Phần lớn các tượng Tổ Kế Đăng tại chùa Tây Phương được sơn phủ bằng các gam màu chủ đạo là đỏ – đen và nâu – đỏ. Người xưa đã khéo léo kết hợp giữa điêu khắc và hội họa sơn mài để tạo ra những tượng phật sống động.
Trả lời