Từ khóa: đức phật – Tổng quan về Phật học

GNO – Từ bi là bước chân đầu tiên và cuối cùng của đạo Phật in dấu trong cuộc đời.

Theo Lời Phật tìm hiểu, nó là một đặc tính thuộc tâm hồn kết hợp với trí tuệ, kết quả của tinh thần giải thoát, trí tuệ giải thoát, có tác dụng làm cho cuộc sống trở nên nhẹ nhõm và thoát khỏi khổ đau, diễn ra một cách tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày của những người đã giác ngộ.

Đó là một dạng năng lượng tích cực để biến đổi bản thân và biến đổi cuộc sống đi đến sự hoàn thiện. Có thể nói rằng từ đầu tới cuối, mục đích cuối cùng của người theo đạo Phật không gì khác là mở rộng lòng từ bi.

Cuộc sống của Đức Phật là sự thể hiện hoàn hảo của trí tuệ và lòng từ bi mà từ mọi góc độ, mọi người đều có thể cảm nhận được. Trí tuệ là một đại dương cho lòng từ bi tràn đầy. Chúng ta không thể nhìn thấy hết tầm vóc trí tuệ của Đức Phật, nhưng lòng từ bi của Ngài thì ai cũng có thể nhận ra dễ dàng. Nên khi nghĩ về Đức Phật, chúng ta đang nghĩ về lòng từ bi cao cả mà Ngài đã thể hiện suốt cuộc sống của mình.

G.C. Pande cho biết tính cách tuyệt vời của Đức Phật được thể hiện rõ qua việc không có ai khác để lại ấn tượng sâu sắc trong lịch sử văn hóa Ấn Độ như Ngài. Theo ông, Trí tuệ (Bodhi) và Từ bi (Karunā) đại diện cho nhân cách của Đức Phật.

Với S. Radhakrishnan, ”Đức Phật có đức khoan dung không giới hạn. Ngài coi cuộc sống là tối tăm hơn tội lỗi, khao khát hơn bạo loạn. Ngài đối mặt với khó khăn với tinh thần tỉnh táo và đầy lòng tin. Hạnh đức của Ngài được thể hiện một cách hoàn hảo qua phong cách nhẹ nhàng và cảm giác thương người có một chút độ cứng trong đó” 2.

Sử gia Will Durant cũng đưa ra nhận xét: “Đức Phật là người ‘báo oán bằng đức’. Ai không hiểu Ngài và xúc phạm Ngài, Ngài chỉ im lặng. Nếu có ai điên cuồng và gây hại cho Ngài, Ngài sẽ sử dụng tình thương bảo vệ họ; và càng người đó làm điều ác cho Ngài, Ngài càng làm điều tốt cho họ”.

Chúng ta gọi lòng từ bi của Đức Phật là Thánh hạnh (Ariyacariya) vì đó là cách sống hiểu biết được hướng dẫn và rèn luyện lâu dài bởi một vị Bồ Tát đã trải qua nhiều kiếp thực hành lòng từ bi, quyết tâm hướng tới sự tự giác và tha thứ. Đó là Thánh hạnh, tức một cách sống từ trái tim cao thượng, tự nhiên và không còn vết tích của cái tôi, chỉ quan tâm đến người khác, vì đó là kết quả của việc nuôi dưỡng và thực hiện lòng từ bi trong thời gian dài đối với vô số chúng sinh.

Kinh Tăng chi bộ ghi chép rằng trong nhiều kiếp trước đây, Bồ-tát đã tu tập từ lòng từ bi và nhờ công đức đó, trong nhiều kiếp Ngài được tái sinh làm vị vua Chuyển luân vương trước khi đạt được giải thoát và trở thành bậc Chánh Đẳng Giác. Bản kinh Tướng (Lakkhansuttanta), Trường bộ, cũng cho chúng ta biết Đức Phật có đầy đủ 32 phẩm hạnh tốt, tất cả là kết quả của việc thực hành lòng từ bi đối với khổ đau của chúng sinh.

Như một kết quả, Đức Phật biểu hiện và thể hiện lòng từ bi vô tận khi Ngài đến với thế giới này. Cuộc sống của Ngài là một tấm gương lớn về lòng từ bi. Hầu hết các tài liệu được truyền lại cho thấy ở độ tuổi thanh niên, Ngài đã biểu hiện tấm lòng đầy nhân ái và sự nhạy cảm đối với sự đau khổ trong cuộc sống. Tình yêu thương và tính ôn hòa – những dấu hiệu của một vị Phật tương lai – đã hiện ra sớm trong vị hoàng tử trẻ Siddhattha.

Truyền thuyết kể về cảnh lễ hạ điền hàng năm theo truyền thống của vương tộc Sakya cho biết vị hoàng tử nhỏ không hạnh phúc khi chứng kiến cảnh sinh vật nhỏ bé đau đớn bởi lưỡi cày của người nông dân trong buổi lễ xuống đồng. Vì vậy, thay vì đùa cợt như những đứa trẻ khác trong buổi hội đông vui, Siddhattha yên lặng tìm đến gốc cây quả hồng trên gò vắng để ngồi suy ngẫm một mình. Tài liệu Đại kinh Saccaka, Trung bộ, ghi nhận sự kiện này, nói rằng vị thái tử trẻ nhanh chóng đạt được trạng thái an tịnh sơ thiền khi ngồi suy ngẫm một mình vào dịp lễ hạ điền.

Có thể bạn quan tâm: Đức Phật Thích Ca: Lịch Sử Và Huyền Thoại về từ khóa Phật Thích Ca

Các tư liệu Phật giáo cũng cho biết vị hoàng tử trẻ không thích việc săn bắn thường là sở thích của các vua chúa và vương tử hiện tại. Người ta kể rằng một ngày, khi đi chơi trong rừng cùng Devadatta và Naradatta, Siddhattha đã tỏ ra thất vọng và phản ứng mạnh khi hai bạn đang giết hại các loài vật. Khi nhìn thấy con hạc trắng vừa bị Naradatta bắn hạ, vị hoàng tử trẻ nhanh chóng tới chỗ con vật bị thương, rút mũi tên ra khỏi cơ thể nhỏ bé của nó và chăm sóc con vật. Tình yêu thương con người và động vật của Ngài càng được thể hiện rõ hơn trong cách Ngài nói chuyện với Naradatta.

Ôi người đầy lòng từ bi Siddhattha. Bạn cho rằng động vật có một tâm hồn, và chúng ta hoàn toàn sai khi làm chúng đau đớn? – Thanh niên Naradatta tin theo thuyết vật chất của Ajita Kesakambalī tiến đến gần Siddhattha với vẻ cười và hỏi ra vẻ chế giễu.

Tôi không biết nó có một linh hồn hay không. Nhưng bạn chắc chắn không thấy con vật nhỏ bé đáng thương này đang đau khổ ư? Bạn Naradatta, dường như bạn không cảm thấy hối tiếc khi gây đau khổ cho người khác. – Siddhattha vừa nói lên sự trách móc và nhìn bạn mình với vẻ thất vọng.

Sự đồng cảm với đau khổ của người khác như thế này chắc chắn đã không ngừng phát triển trong con người Siddhattha vì người ta thấy càng về sau, Ngài tỏ rõ tâm từ rộng lớn đối với tất cả chúng sinh và tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc tôn trọng sự sống và hạnh phúc của mọi loài. Cuộc sống Sa-môn khất thực không cho phép Ngài lựa chọn món ăn theo ý mình, nhưng Ngài tuyệt đối không chấp nhận ăn thịt các con vật bị sát hại vì lý do làm món ăn cho Ngài.

Ông cảm nhận nỗi đau của động vật khi nó bị kéo đi giết thịt. Ông cấm mọi hành vi giết chóc và không tán thành các nghề nghiệp gây sát hại. Ông khuyên dạy các đệ tử của mình nuôi dưỡng lòng từ bi và đối xử bình đẳng với tất cả các loài. Ông chứng kiến bằng trái tim rằng tất cả các sinh vật đều yêu quý bản thân (nghĩa là mong muốn hạnh phúc cho bản thân); do đó, nếu ai đó đã yêu quý bản thân của mình thì không làm hại bản thân của người khác.

Đức Phật cảm nhận tâm lý rất chung rằng tất cả chúng sinh đều yêu quý sự sống, lo sợ sự chết, mong muốn an lạc, chán ghét khổ đau. Bởi vậy Đức Phật khuyên mọi người hãy lấy bản thân mình làm ví dụ để không giết hại hay khiến người khác giết hại. Trong sinh hoạt hàng ngày, Đức Phật tuân giữ một nguyên tắc không vứt thức ăn dư thừa (xả rác) lên đám cỏ xanh hay nhận chìm xuống chỗ nước có các loài côn trùng sinh sống. Đức Phật an trú lòng từ cho đến trong một giọt nước với tâm niệm: “Mong rằng Ta không làm hại một chúng sinh nhỏ nào trong các cảnh giới bất hạnh của chúng”.

Tâm từ bi của Đức Phật càng thể hiện rõ nét sau ngày Ngài trở thành đạo và giảng dạy về sự sinh ra, trong vai trò một bậc Giác ngộ sinh ra ở đời vì hạnh phúc và sự thịnh vượng cho mọi người, vì lòng tương tư cho đời, vì lợi ích, hạnh phúc và sự thịnh vượng cho tất cả các vị thần và con người. M.M. Williams nói rằng Đức Phật đã giải thoát khỏi sự khổ đau của sự sinh tử, đã đạt được Niết-bàn – sự dập tắt lửa tham muốn – và lẽ ra đã có thể tận hưởng niềm an lạc tuyệt đối của Niết-bàn xứng đáng. Thế nhưng tình yêu thương đồng loại đã buộc Ngài phải hy sinh.

Trong một cuộc thảo luận với vua Hy Lạp Manender, Tỷ-kheo Nāgasena đã so sánh công cuộc giảng dạy của Đức Phật như “một trận mưa to rơi xuống trần gian sau một thời gian nắng hạn kéo dài, làm thấm sâu vào tâm hồn của vô số chúng sinh, khiến mọi thứ nảy mầm và phát triển, làm cho mọi người hạnh phúc và vui mừng, mang lại phước lành và sự thịnh vượng, sinh sôi và phát triển đức tin và trí tuệ, làm sạch sẽ những ý niệm xấu xa, dập tắt lòng tham lam và ác ý. Khi tình yêu thương và lòng từ bi tràn đầy qua lịch sử, qua các quốc gia, qua thời gian, ở bất kỳ nơi nào không có sự oán hận, bất công, kẻ cướp buông dao, những kẻ hung ác cười mỉm, tình thương và lòng nhân ái trở nên hòa hợp và làm dịu mát trái tim, làm cho lòng người thăng hoa.”14.

Trong suốt 45 năm giảng dạy, Đức Phật đã thể hiện hoàn toàn lòng từ bi của một vị Giác ngộ, hiểu rõ mọi nỗi đau và nguyên nhân đau khổ của con người. Ngài đã sống trong thế giới với tinh thần từ bi và nhằm khuyến khích lòng từ bi của tất cả mọi người. Sứ mệnh giáo dục của Ngài không có ranh giới, đến tìm đến tất cả mọi người và tất cả các loài; Ngài luôn kêu gọi mọi người sống hòa bình và lan tỏa lòng từ bi.

Đức Phật biểu lộ và thể hiện tâm từ bi vô lượng khi Ngài đến với thế giới này. Cuộc đời Ngài là tấm gương lớn về tâm hạnh từ bi. Hầu hết các tài liệu được truyền lại đến nay đều cho thấy ở độ tuổi niên thiếu Ngài đã biểu lộ tấm lòng đầy nhân ái và trắc ẩn đối với khổ đau hiện diện trong cuộc đời.

Có thể nói rằng toàn bộ lời dạy của Đức Phật cho nhân thế chỉ nhắm vào một mục tiêu duy nhất: Áp dụng tình yêu thương để giải quyết mọi khó khăn trong cuộc sống. Có hai phương pháp giảng dạy của Đức Phật được ghi lại trong các kinh văn Pàli cổ xưa cho thấy từ đầu tới cuối của tôn giáo của Ngài là sự lan tỏa liên tục của lòng từ bi, thể hiện qua việc hiến tặng (dāna) của người Phật tử.

Thứ nhất là hình thức khai đạo của Thế Tôn dành cho những người đầu tiên muốn thực hành theo pháp giải thoát của Ngài: ”Rồi Thế Tôn thứ lớp thuyết giảng cho Bà-la-môn Brahmayu, thuyết về bố thí, thuyết về trì giới, thuyết về các cõi Thiên đàng, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm bẩn của dục vọng và sự lợi ích của giải thoát. Khi Thế Tôn biết tâm của Bà-la-môn Brahmayu đã sẵn sàng, đã nhuận thuận, không còn trở ngại, được phấn khởi, được tin tưởng, liền thuyết giảng mà chư Phật đã ca ngợi, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo”15.

Hình thức thứ hai là lời khuyên của Ngài dành cho những người đã chứng đạo và đắc đạo: “Này các Tỷ-kheo, Ta đã được thoát khỏi tất cả các cạm bẫy ở Thiên giới và Nhân giới. Này các Tỷ-kheo, các Thầy cũng đã được thoát khỏi tất cả các cạm bẫy ở Thiên giới và Nhân giới. Này các Tỷ-kheo, hãy đi du hành vì hạnh phúc của mọi người, vì sự an lạc của mọi người, vì lòng thương tâm đối với cuộc sống, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì sự an lạc của cả Thiên và loài người. Đừng đi cùng nhau hai người một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng với sự thiện lương ban đầu, sự thiện lương trung bình, sự thiện lương sau cùng, có ý nghĩa, có văn chương. Hãy tuyên thuyết về việc thực hiện đầy đủ và hoàn toàn Phạm hạnh thanh tịnh”.

Hai bài tụng trên nói rõ phương pháp và mục đích của đạo Phật không có gì khác ngoài việc thực hiện và thể hiện lòng từ bi. Bài tụng đầu tiên đề cập đến bố thí như là bước đi quan trọng để tiếp cận đạo giải thoát; trong khi bài tụng thứ hai nhấn mạnh rằng bố thí là mục tiêu quan trọng của đạo giác ngộ. Bố thí (dāna) có ý nghĩa là tặng cho, chia sẻ, hỗ trợ người khác, giúp họ thoát khỏi khổ đau, bao gồm hai hình thức: tài trợ (āmisadāna) và truyền đạo (Dhammadāna). Điều quan trọng và động lực của bố thí là sự hiểu biết và lòng yêu thương, tức là thể hiện lòng từ bi đối với khổ đau của người khác.

Tài thí (āmisadāna) là mở lòng bố thí, giúp hỗ trợ người khác về điều kiện sống, giúp họ thoát khỏi cảnh nghèo khó. Pháp thí (Dhammadāna) là giúp người khác hiểu được đạo lý giải thoát để thoát khỏi đau khổ. Người mới học đạo có thể mở lòng bố thí tài sản để giới hạn lòng tham và nuôi lớn lòng từ bi. Người đã giác ngộ thì thực hiện bố thí Pháp nhằm mang lại hạnh phúc và an lạc cho tất cả mọi người. Như vậy, lòng từ bi đóng vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. Nó là sức mạnh tích cực để biến đổi chính mình và giúp người khác giải thoát khỏi khổ đau.

Phật học lược khảo

Theo lời dạy của Phật, lòng từ bi của người Phật tử được thể hiện ở các mức độ khác nhau tùy theo công hạnh tu tập. Người mới học đạo thể hiện lòng từ bi bằng cách thực hiện các hạnh nguyện như mở rộng tâm bố thí cúng dường, tuân giữ các quy tắc, nỗ lực làm các việc thiện, hạn chế và vượt qua lòng tham muốn. Còn người đã đắc đạo giải thoát thì thể hiện lòng từ bi bằng cách sống giác ngộ của mình, nỗ lực truyền đạt pháp để giải thoát chúng sinh. Mục đích của việc tu học như vậy là để hoàn thiện bản thân và mang lại lợi ích cho mọi người.

Bố thí là hành vi cứu giúp, hiểu mình yêu thương người; giữ giới là lối sống không làm ác, không gây hại (không giết người, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu), tôn trọng sự sống và hạnh phúc của người khác như của chính mình; thực hiện các hành vi thiện là điều sống hướng thiện, cố gắng tạo niềm vui cho bản thân và người khác; đánh bại tham dục là hành động thông minh, loại bỏ mọi hành vi sai lầm gây tổn hại cho bản thân và người khác.

Nhìn như vậy, cách sống tu đạo và hành đạo giải thoát của người Phật tử là một cách sống cao quý, xứng đáng để mọi người học tập và theo đuổi trong cuộc sống; bởi đó là luồng chảy của lòng từ bi, tràn đầy hạnh phúc an lành, không còn bất kỳ phiền muộn khổ đau, được gọi là vô sự (abhayadāna), có nghĩa là ban cho niềm tin yêu bình an, xua tan mọi lo lắng sợ hãi. Đức Phật đã khuyên dạy các học trò của mình thể hiện lòng từ bi như sau:.

”Như tấm lòng người mẹ,.

Đối với con của mình,.

Trọn đời lo che chở,.

Con độc nhất mình sanh.

Cũng vậy, đối tất cả,.

Các hữu tình chúng sanh,.

Hãy tu tập tâm ý,.

Không hạn lượng (rộng lớn).

Hãy tu tập từ tâm,.

Trong tất cả thế giới,.

Hãy tu tập tâm ý,.

Không hạn lượng (rộng lớn).

Phía trên và phía dưới,.

Cũng vậy, cả bề ngang,.

Không hạn chế, trói buộc,.

Không hận, không thù địch.

Khi đứng, hay khi đi,.

Khi ngồi, hay khi nằm,.

Lâu cho đến khi nào,.

Khi đang còn tỉnh thức,.

Hay an trú niệm này,.

Nếp sống này như vậy,.

Được đời đề cập đến,.

Là nếp sống tối thượng”17.

Đáng chú ý là lòng từ bi có khả năng biến đổi mạnh mẽ đối với cuộc sống hạnh phúc và hướng thiện của con người, bởi nguồn gốc của lòng từ bi là trí tuệ, tức là khả năng nhận biết đau khổ của bản thân và người khác, đồng thời biết cách giải tỏa đau khổ của bản thân và người khác. Nó tương tự như tình yêu của mẹ, có tác dụng nuôi dưỡng những đứa con khỏe mạnh và hiền lành.

Phật tử hiểu rõ nguyên nhân đau khổ của bản thân và cả đau khổ của người khác nên có lòng từ bi, thể hiện qua việc làm công đức tốt, tuân thủ quy tắc, thực hiện các việc thiện, kiểm soát lòng tham, cố gắng tuân thủ lời dạy của Phật để giải thoát khỏi đau khổ cá nhân và phục vụ hạnh phúc cho mọi người.

Đây chính là bản chất sống và năng lượng vĩnh cửu của Phật giáo, được xây dựng trên tinh thần từ bi cao quý của Đức Phật, được chiếu sáng bởi triết lý từ bi của Ngài, và được củng cố bởi lòng tin yêu của nhiều thế hệ Tăng Ni và Phật tử trong sứ mạng thực hiện lý tưởng tự do và hòa bình. Năng lượng đó không chỉ mang lại hạnh phúc và an lạc cho nhiều người mà còn truyền cảm hứng yêu thiện cho nhiều dân tộc trên trái đất.

Phật tử Việt Nam rất tôn trọng lòng từ bi của Bồ-tát Avalokitesvara, thuộc lòng câu thần chú: “Thiên thủ, thiên nhãn, vô ngại đại bi tâm, đà-la-ni” để nhắc nhở bản thân nỗ lực tu tâm, vui mừng thực hiện các hành vi thiện, giúp giảm khổ và thoát khỏi khổ đau trong cuộc sống, đồng thời duy trì truyền thống từ bi cao quý mà chư Phật và chư vị Bồ-tát đã xây dựng và luôn mong muốn mỗi người con Phật của chúng ta cống hiến và phát huy.

1 Xem G.C. Pande, Origins of Buddhism, tr.393.

2 S. Radhakrishnan, The Dhammapada, tr.12-13.

3 Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử Văn minh Ấn Độ, tr.78.

4 Thuật ngữ Bồ-tát (Boddhisatta) ở đây chỉ cho đời sống của Đức Phật trước khi Ngài giác ngộ.

5 Kinh Ngủ gục, Tăng chi bộ.

6 Davids J & Indrani Kalupahana, The Way of Siddhartha – A Life of the Buddha, tr.21.

7 Kinh Jìvaka, Trung bộ.

8 Như trên.

9 Kinh Mallikà, Tương ưng bộ.

10 Kinh Pháp cú, kệ số 129-131.

11 Kinh Thừa tự pháp, Tiểu kinh Rừng sừng bò, Trung bộ.

12 Đại kinh Sư tử hống, Trung bộ.

13 M.M. Williams, Buddhism, tr.41.

14 Thích Giới Nghiêm, Kinh Mi Tiên vấn đáp, tr.881-883.

15 Kinh Phạm-ma, Trung bộ.

16 Kinh Sập bay, Tương ưng bộ.

17 Kinh Từ, bi, Kinh Tập, Tiểu bộ.


Posted

in

by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *