Theo Lời Phật tìm hiểu, The Church of Jesus Christ of the Latter-day Saints được gọi là Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê su Ky-tô trong tiếng Việt.
Giáo hội Mặc Môn là tên gọi được lấy tên theo một loại Kinh sách của giáo hội;.
Móoc Mông-Mormon là một dòng tộc người Israel, nhưng họ đã sống và qua đời tại châu Mỹ và liên quan đến giáo phái.
Tên chính thức của Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê-su Ky-tô. Đây là một trong những giáo hội lớn và được biết đến nhiều nhất trong phong trào Thánh hữu ngày sau (một phong trào Phục hồi Ky-tô giáo trong thế kỷ XIX).
Sử liệu về việc hình thành Giáo hội Mặc Môn
Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê su Ky-tô (tên tiếng Anh The Church of Jesus Christ of the Latter-day Saints) là một trong những giáo hội lớn và nổi tiếng nhất trong phong trào Thánh hữu ngày sau (một phong trào Phục hồi Ky-tô giáo ở thế kỷ XIX). Ngoài ra, giáo hội còn có tên ngắn gọn khác là Giáo hội Mặc Môn (lấy tên theo một loại Kinh sách của giáo hội) và Móoc Mông-Mormon (tên một tộc người dòng dõi ở Israel nhưng sống và chết ở châu Mỹ gắn với giáo hội). Tuy nhiên, giáo hội mong muốn được gọi bằng tên đầy đủ là Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê su Ky-tô.
Giáo hội Mặc Môn được thành lập vào ngày 6 tháng 4 năm 1830 tại Fayette, New York, Hoa Kỳ bởi giáo chủ Joseph Smith, được tín đồ trong giáo hội coi như là một trong những tiên tri của thời đại sau này. Ban đầu, giáo hội được gọi là Giáo hội của Chúa Giê su Ky Tô (Church of Jesus Christ), với ý nghĩa là niềm tin vào việc phục hồi giáo hội ban đầu. Trong cùng năm, “Sách Mặc Môn – Một Chứng Thư Khác Về Chúa Giê Su Ky-Tô”, một trong những sách thánh của giáo hội, được xuất bản. Bốn năm sau đó, vào tháng 4 năm 1834, giáo hội đổi tên thành Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau (Church of the Latter Day Saints). Tín đồ cho rằng việc đổi tên này là để phân biệt giáo hội của họ là một giáo hội của thời kỳ sau cùng, ngay trước ngày Đấng Ky-Tô tái xuất, với giáo hội Tân Ước. Vào tháng 4 năm 1838, giáo hội một lần nữa đổi tên thành Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau Của Chúa Giê Su Ky-Tô. Trụ sở chính của giáo hội đặt tại Salt Lake City, thủ đô của bang Utah, Hoa Kỳ, và hoạt động trên phạm vi toàn cầu, có hoạt động ở hơn 189 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tại Việt Nam, có hơn 1000 người theo đạo Giáo hội Các Thánh Hữu Ngày Sau Của Chúa Giê Su Ky Tô, chủ yếu tập trung ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Đây là một cấp giáo thuộc giáo vùng Châu Á trong giáo hội toàn cầu. Theo thống kê tính đến năm 2013, Giáo hội này có hơn 29 ngàn giáo khu và chi nhánh, 450 phái bộ truyền giáo, hơn 80 ngàn người truyền giáo, 141 đền thờ, 4 trường đại học và cao đẳng, cùng với 15 triệu tín đồ. Đây là tôn giáo lớn thứ tư ở Hoa Kỳ. Ngoài ra, hiện có 17 nghị sỹ Quốc hội khoá 113 của Mỹ là tín đồ Giáo hội Mặc Môn.
Thông tin về tính chất, triết lý, quy định và cấu trúc của Giáo phái Mặc Môn.
Dù ra đời trong phong trào cải cách tôn giáo, Giáo hội Mặc Môn không thuộc nhóm giáo phái Tin lành do có đặc điểm riêng về tín lý, giáo luật, kỷ luật và lễ nghi. Nghiên cứu xếp giáo hội vào nhóm các giáo phái Ky-tô giáo khác như Giáo hội Cơ đốc Phục lâm và Nhân chứng Giê hô va. Tuy nhiên, ở Việt Nam, Giáo hội Mặc Môn được xếp vào nhóm “gia đình Tin lành” để quản lý thuận tiện do có một số đặc điểm chung với các giáo hội cải cách.
Giáo hội Mặc Môn không sử dụng sản phẩm giáo pháp chuyên nghiệp mà chỉ tuyển mộ những người có sứ mệnh, tình nguyện phục vụ giáo hội full-time và không nhận lương hay trợ cấp từ giáo hội. Ban lãnh đạo trung ương của giáo hội bao gồm một Chủ tịch và hai cố vấn, hiện tại, ông Thomas S.Monson đang giữ vị trí Chủ tịch. Dưới đó là nhóm Tám mươi Sứ đồ và ba thành viên giám trợ. Những người lãnh đạo giáo hội thường là những người trung niên hoặc người đã nghỉ hưu (nhưng vẫn khỏe mạnh và sáng suốt) hoặc những người có tài chính ổn định, dành thời gian của mình để phục vụ giáo hội và không nhận lương từ giáo hội. Người đứng đầu giáo hội được coi là các tiên tri đương đại, bắt đầu từ giáo chủ đầu tiên Joseph Smith và tiếp tục cho đến ngày nay với Thomas S. Monson.
Giáo lý của Giáo hội Mặc Môn dựa trên các tài liệu như sách Kinh Thánh, sách Mặc Môn, sách Giáo lý và Giao ước, sách Trân châu vô giá để xây dựng nền tảng cho giáo lý. Các tín đồ trong giáo hội tin rằng các tài liệu này là những tài liệu Thánh Thư. Giáo lý của giáo hội được tóm tắt trong 13 điều căn bản. Giáo hội tin rằng Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh là ba nhân vật riêng biệt. Ngoài ra, giáo hội còn tin vào sự phục tùng các vua chúa, tổng thống, các nhà cai trị và các pháp quan cùng với việc tôn trọng, tuân theo và tán trợ cho luật pháp quốc gia.
Trong cuộc sống, có những hoạt động cơ bản giống như trong giáo phái Tin lành như thánh ca, diễn thuyết, cầu nguyện. Tuy nhiên, khi diễn thuyết, không có chức sắc chuyên nghiệp, mọi tín đồ có khả năng trình bày đều có thể đăng ký để chia sẻ với mọi người. Ngoài ra, còn có các hoạt động dành cho từng độ tuổi, giới tính, tìm hiểu về giáo hội, học ngoại ngữ….
Các tín đồ theo Giáo hội Mặc Môn luôn tuân thủ Lời thông sáng về chế độ ăn uống khắt khe. Trong cuộc sống hàng ngày, họ được giảng dạy cấm uống rượu bia, hút thuốc, sử dụng ma túy hoặc các chất gây nghiện có hại cho sức khỏe. Tín đồ cũng được hướng dẫn không thực hiện quan hệ tình dục trước khi kết hôn, cũng như không ngoại tình sau khi đã kết hôn. Ngoài ra, họ còn được khuyên nên giữ gìn vóc dáng, ăn mặc lịch sự, trang nhã trong mọi tình huống, ví dụ như phụ nữ nên mặc váy qua đầu gối và tránh để lộ vòng một hay hành động gợi cảm.
Tiểu bang Utah và Tôn giáo Mặc Môn
Trong tất cả 50 bang tại Hoa Kỳ, có thể nói Utah là một bang đặc biệt hơn cả, khác biệt so với các bang khác. Utah là một vùng đất duy nhất được xây dựng bởi một tôn giáo và mọi mặt của cuộc sống ở đây, bao gồm kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, lịch sử, đều chịu ảnh hưởng của Giáo hội Mặc Môn. Tại Utah, người theo Giáo hội Mặc Môn chiếm 64% dân số, với hơn 1 triệu tín đồ trong tổng số hơn 4 triệu tín đồ trên toàn quốc Mỹ.
Thành phố Salt Lake, thủ phủ của tiểu bang Utah, là một thành phố được thành lập vào năm 1847 bởi vị tiên tri Brigham Young khi ông dẫn đoàn tín hữu di dân từ phía Đông nước Mỹ đến đặt chân tới một thung lũng hoang vu ở dưới chân rặng núi Wasatch. Ngày nay, thành phố Salt Lake với khoảng 300 ngàn dân và vùng phụ cận lên tới trên 1 triệu dân, là một thành phố đẹp, sạch sẽ, và ngăn nắp. Kinh tế của thành phố vững mạnh, và vị trí của nó nằm ở giữa rặng núi Wasatch và hồ nước mặn Great Salt Lake, trước đây là một biển lớn sau này khô cạn và thu nhỏ lại khiến độ mặn ở đây cao giống như Biển Chết ở Tây Á. Thành phố Salt Lake được xây dựng theo kiểu mẫu được Vị Tiên tri Joseph Smith vẽ ra, với việc chia thành từng ô vuông vắn 10 mẫu, đường phố thẳng góc và trung tâm thành phố là ngôi Đền thờ của Giáo hội Mặc Môn, được làm bằng đá hoa cương với khu vực trung tâm quảng trường của đền rất đẹp và yên tĩnh.
Nhờ sự đóng góp chung của các tín đồ, đặc biệt là những doanh nhân, Giáo hội Mặc Môn đã có được một ngân quỹ được xem là một trong những tài chính lớn nhất trong các tôn giáo tại Mỹ. Khu vực từ Logan ở phía Bắc đến Provo đang trở thành trung tâm công nghệ cao về tin học, Y học, sinh hóa học và kinh tế ngoại thương phát triển mạnh sang các nước Châu Á.
Tìm hiểu thêm: Những đức tính của Chúa Giêsu là gì?
Cộng đồng người Việt Nam hiện tại có khoảng trên 6000 người đang sinh sống tại Utah, chủ yếu tập trung ở thành phố Salt Lake. Người Việt đến định cư ở đây chủ yếu từ hai nguồn là những người di dân sau năm 1975 cùng các thế hệ tiếp nối và các du học sinh sau này. Đa số sinh viên Việt Nam muốn theo học tại Đại học Brigham Young bởi chất lượng đào tạo tốt và chi phí học tập thấp của trường, sau đó thường gia nhập Giáo hội và trở thành những tín hữu trung tín đi truyền giáo khắp nơi, một số ít theo học các Đại học công lập của chính phủ như Đại học Utah ở Logan.
Giáo dục và tuyên truyền của Giáo phái Mặc Môn
Giáo hội có 4 trường đại học và cao đẳng, trong đó trường Đại học Brigham Young – BYU được biết đến như một trường nổi tiếng nhất. Đại học BYU của Giáo hội Mặc Môn được nhiều người trẻ trên toàn thế giới biết đến. Đại học này được xếp vào top 50 trường hàng đầu nước Mỹ, có một điểm nổi bật đó là tất cả sinh viên nam nữ đều phải tuân theo một kỷ luật nghiêm ngặt của trường. Sinh viên dù là tín hữu hay không, đều phải tuân thủ giáo luật của Giáo hội, bao gồm cấm hút thuốc, uống rượu, trà, cà phê, cờ bạc và cấm quan hệ tình dục trước và ngoài hôn nhân. Ngoài ra, sinh viên của trường còn phải giữ đầu tóc gọn gàng (không nên để tóc dài và bù xù đối với nam), ăn mặc trang nhã, lịch sự và phù hợp (ví dụ không mặc quần ngắn và đồ ngủ đi vào lớp học, váy thì phải dài qua gối đối với nữ). Mặc dù có nhiều quy định và điều kiện khắt khe, nhưng vẫn có nhiều sinh viên từ nhiều quốc gia trên thế giới đến học tập tại BYU vì học phí ở đây khá cạnh tranh và được Giáo hội hỗ trợ, đồng thời chất lượng giảng dạy rất cao do có những giảng viên giỏi của Mỹ. Hiện nay, BYU là một trường đại học nổi tiếng với đầy đủ các ngành học, có chi nhánh tại nhiều nơi trên đất Mỹ, trong đó có cơ sở tại Hawaii dành cho sinh viên nhiều nước phương Đông. Trường còn có chương trình học ngoại ngữ rất phát triển, đào tạo hàng trăm ngoại ngữ khắp thế giới, góp phần đưa nhân tài cho các kế hoạch truyền đạo ở hải ngoại của Giáo hội.
Hầu hết sinh viên học tại trường BYU có khả năng sử dụng ít nhất một ngôn ngữ ngoài tiếng mẹ đẻ, bởi vì họ đã từng truyền giáo tại một quốc gia khác hoặc được khuyến khích học ngôn ngữ mới. Tổng số sinh viên hiện tại của BYU là hơn 31.000, trong đó 90% là tín đồ giáo hội. Học trình tại BYU rất cao và bao gồm các môn học bắt buộc về giáo lý của Đấng Ky Tô. Ngay cả sinh viên bên ngoài cũng phải học các môn này khi đăng ký vào trường, mặc dù không bắt buộc phải gia nhập giáo hội. BYU là một trường đại học khác biệt với phong cách sống lành mạnh do giáo hội tạo ra. Mặc dù có vẻ hơi hạn chế, nhưng đó là điều giúp ích rất nhiều cho sự trưởng thành của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Truyền giáo là việc mở rộng phạm vi hoạt động của giáo hội và phát triển tín hữu, được coi là nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi tín đồ theo giáo luật. Giáo hội Mặc Môn có đội ngũ truyền giáo tình nguyện đông đảo, phục vụ toàn thời gian trong thời gian từ 18 tháng đến 2 năm trên toàn thế giới. Hầu hết các thanh niên trẻ sau khi tốt nghiệp trung học hoặc đại học và là tín đồ của giáo hội, đều tự nguyện dành thời gian đi truyền giáo (trong độ tuổi từ 18-28 tuổi). Trước khi bắt đầu truyền giáo, họ được trang bị các kỹ năng sắp xếp tổ chức và vốn ngoại ngữ, văn hóa cơ bản ở những khu vực truyền giáo. Sau thời gian phục vụ, những người truyền giáo trở về với tình cảm sâu đậm đối với con người nơi họ phục vụ và trở thành đại sứ đắc lực cho đất nước và văn hóa nơi họ từng có thời gian truyền giáo. Mỗi khi đi truyền giáo, họ phải đi theo cặp, ăn mặc chỉnh tề, đầu tóc tươm tất, có tác phong đứng đắn, lịch sự và lễ độ, tự túc về mọi phương tiện, tài chính. Ngoài những nhà truyền giáo trẻ, còn có một số những người trung lưu và nhiều tuổi (khỏe mạnh) thành đạt về kinh tế, họ dành chọn thời gian cho giáo hội bằng cách làm các công việc cho giáo hội như truyền giáo để phát triển tín đồ, giúp đỡ tín đồ trong một số lĩnh vực trong cuộc sống.
Hội nghị khoa học Quốc tế về Tôn giáo.
Suốt hơn 20 năm, Trung tâm nghiên cứu Luật pháp và Tôn giáo Quốc tế của Đại học Brigham Young (BYU) đã tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế về các vấn đề liên quan đến luật pháp và tôn giáo ở một số khu vực trên thế giới. Hội thảo thu hút sự tham dự của những chuyên gia, luật sư, quản lý và những người hoạt động thực tiễn liên quan đến tôn giáo từ khắp nơi trên thế giới. Tại đây, các đại biểu đã thảo luận về nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến luật pháp và tôn giáo, bao gồm chính trị và tôn giáo, luật pháp tôn giáo của các quốc gia, quan hệ giữa quyền tự do tôn giáo và các quyền cơ bản khác của công dân, giới thiệu về luật pháp tôn giáo ở một số quốc gia, và góc độ pháp lý trong việc giải quyết các xung đột và tranh chấp liên quan đến tôn giáo. Với sự phát triển của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hóa, các tôn giáo có cơ hội và điều kiện để truyền bá và phát triển trên toàn cầu. Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo cũng nên tăng cường sở trường của mình trong việc tham gia vào các hoạt động chung của xã hội, như tham gia vào các hoạt động y tế, văn hóa, giáo dục, từ thiện, bảo vệ môi trường và phòng chống chiến tranh và bạo lực.
Giáo phái Mặc Môn ở Việt Nam
Giáo phái Mặc Môn đã được giới thiệu vào Việt Nam từ năm 1962 và được chính quyền Sài Gòn (trước đây) cấp phép hoạt động vào năm 1967. Vào năm 1975, có khoảng trên 1000 tín đồ Việt Nam theo đuổi giáo phái này, và một trụ sở tại số 253 đường Thành Thái, Thành phố Sài Gòn. Sau đó, Giáo hội Mặc Môn tạm ngừng hoạt động tổ chức và phần lớn tín đồ di tản ra nước ngoài, trong khi số tín đồ còn lại tiếp tục giữ đạo tại nhà. Năm 1995, Giáo hội Mặc Môn trở lại hoạt động tại Việt Nam và hình thành 2 điểm tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Năm 2011, hai điểm tập trung này đã được sáp nhập thành Giáo hạt Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ông Hoàng Văn Tùng.
Hiện nay, có khoảng trên 1000 người tín đồ theo tổ chức giáo hội tại Việt Nam, hoạt động chủ yếu tập trung ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Tổ chức giáo hội được thực hiện theo chủ trương tự do tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Ngày 30/5/2014, Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ đã ký Quyết định số 132/QĐ-TGCP công nhận Ban Đại diện lâm thời của Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau Của Chúa Giê Su Ky Tô Việt Nam. Ban Đại diện lâm thời gồm 3 thành viên do ông Hoàng Văn Tùng làm Trưởng ban, trụ sở tạm thời đặt tại nhà số 2, lô 6, đường Trung Yên 9, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Việc công nhận Ban Đại diện lâm thời là cơ sở bước đầu để Nhà nước xem xét cấp đăng ký hoạt động và công nhận về mặt tổ chức cho giáo hội khi hội đủ điều kiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
Trả lời