Theo Lời Phật tìm hiểu, sự hồi sinh hay “tái sinh” của Chúa Giêsu trên trái đất là một niềm tin vô cùng quan trọng và là hy vọng to lớn của tất cả các tín đồ Cơ đốc giáo.
Sự tin tưởng này đã lan rộng và trở thành một phong trào ở Mỹ vào đầu thế kỷ XIX, góp phần vào sự phục hưng tôn giáo.
I. Xuất xứ của Giáo hội Cơ đốc Phục Lâm
W. Miller, người khởi xướng phong trào, không được đào tạo chính quy tại một trường thần học, nhưng với đức tin chắc chắn, ông nghiên cứu Kinh Thánh chăm chỉ, đặc biệt quan tâm đến các lời tiên tri trong sách Đa-ni-ên và Khải huyền. Ông tuyên bố một cách tin tưởng rằng Chúa Ki-tô sẽ trở lại vào khoảng từ 21 tháng 3 năm 1843 đến 21 tháng 3 năm 1844. Tuy nhiên, lời tiên tri của ông không thành hiện thực, khiến một số người thất vọng và chán nản, quay trở lại Hội thánh cũ của mình hoặc từ bỏ niềm tin Ki-tô giáo. W. Miller đã thành thật xin lỗi mọi người vì sự nhầm lẫn trong tính toán trước đó. Sau đó, dựa trên sự nghiên cứu kỹ lưỡng các dấu hiệu trong Kinh Thánh, ông đưa ra dự đoán thứ hai rằng Chúa Ki-tô sẽ trở lại vào ngày 20 tháng 10 năm 1884. Tuy nhiên, ngày đó đã trôi qua một cách bình thường. Mặc dù cả hai lần dự đoán của W. Miller về sự trở lại của Chúa Ki-tô đều thất bại, phong trào Cơ đốc Phục lâm vẫn phát triển mạnh mẽ. Vào năm 1845, người theo giáo thuyết của W. Miller đã tổ chức Đại hội đồng tại Albany, New York (Mỹ) để thành lập một giáo phái mới của đạo Tin lành: Cơ đốc Phục lâm (Adventist).
Khi phong trào Cơ đốc Phục lâm phát triển mạnh, cũng là thời điểm xuất hiện những khác biệt về học thuyết. Ngày lễ Sabath được tổ chức vào ngày nào trong tuần, ngày thứ nhất hay ngày thứ bảy, ngày chủ nhật hay ngày thứ bảy?… Trong những vấn đề đó, những người Cơ đốc Phục lâm đã có những hiểu biết khác nhau và được chia thành ba nhóm.
1. Giáo hội Cơ đốc Phục lâm.
Tôn giáo Cơ đốc Phục lâm được thành lập sớm hơn nhiều, vào khoảng thập niên 1830 – 1840, khi ông W. Miller chưa suy nghĩ đến việc thành lập một tổ chức riêng. Hai người đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành giáo phái và xây dựng lý thuyết độc lập trên cơ sở Chúa tái lâm của ông W. Miller là George Stors và Charles F. Hudson.
Những thành viên tín đồ của Giáo hội Cơ đốc Phục lâm không đồng ý với quan điểm về tính bất tử của linh hồn (dựa trên lý thuyết thuần tuý của Platon) và đưa ra khái niệm về trạng thái vô thức của tất cả người chết cho đến khi phục sinh, cùng với sự biến mất của những kẻ ác, bởi vì nó đối lập với sự đau khổ của những con người trong đời sống. Giáo hội Cơ đốc Phục lâm có hai nghi thức là Rửa tội bằng cách ngâm mình trong nước và Tiệc thánh. Lễ Sabath được tổ chức vào ngày đầu tiên của tuần.
2. Đại hội đồng Giáo hội của Chúa.
Tổ chức Đại hội đồng Giáo hội Chúa là kết quả tự nhiên của một số nhóm Cơ đốc Phục lâm độc lập ở nhiều địa phương trên lãnh thổ Mỹ, được thành lập vào giữa thế kỷ XIX, chủ yếu tại cộng đồng người Anh di cư. Họ đã hợp nhất vào năm 1888 tại Philadelphia, vì cùng niềm tin mạnh mẽ vào ngày tái sinh của Chúa Ki-tô.
Kinh Thánh được coi là tiêu chuẩn cao nhất của đức tin, đề cập đến sự tái lâm của Chúa Ki-tô và thuyết “ngàn năm bình an” được nhấn mạnh một cách quyết định. Theo họ, vương quốc của Chúa phải được hiểu đúng theo nguyên tác (Kinh Thánh), bắt đầu từ Jerusalem khi Đấng Christ tái lâm và lan rộng đến tất cả các quốc gia. Sự phục sinh được xem là phần thưởng từ Thiên Chúa dành cho những người công chính trong thế gian.
3. Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy (Cơ đốc Phục lâm An thất Nhật).
Vào năm 1845, một nhóm người tin rằng tiên tri Đa-ni-ên 8 đã nói về việc chấm dứt 2.300 năm vào một ngày trong tương lai. Họ đã sử dụng tiền đề này để lập một giáo hội mới, được gọi là Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy. Tuy nhiên, cho đến năm 1860, khi lễ Sabath vào Ngày thứ bảy được thực hiện phổ biến, giáo hội mới này mới được chính thức thừa nhận và trở thành điểm riêng biệt của giáo phái. Các nhà lý luận quan trọng trong việc xây dựng giáo thuyết này bao gồm Joseph Bates, James White, Hiram Edson, Frederick Wheeler, S.W. Rhodes và đặc biệt là bà Ellen Gould White – vợ của ông James White. Bà Ellen Gould White không chỉ được tín đồ Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy tôn vinh mà còn được các giáo phái Tin lành Cơ đốc Phục lâm biết đến qua các tác phẩm của bà về giáo thuyết Chúa Ki-tô tái lâm, bao gồm Nét bút đầu tay (1851), Lời chứng cho Hội thánh (1855), Thiện ác đấu tranh (1858), Nguyện ước muôn đời, Tiên tri và vua chúa, Con đường giải thoát… Tổng cộng, bà đã viết 53 quyển sách với khoảng 50 ngàn trang, và khoảng 5.000 bài báo về các vấn đề tôn giáo, văn hoá xã hội.
Giáo phái Cơ đốc Phục lâm có Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy là tổ chức lớn nhất, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, thống nhất, giáo lý, luật lệ, lễ nghi rõ ràng, số lượng tín đồ đông đảo và phân bố rộng khắp. Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam thuộc hệ cấp toàn cầu Tổng hội. Vì vậy, chúng tôi đã nghiên cứu sâu hơn về lịch sử, giáo lý, luật lệ, lễ nghi và cơ cấu tổ chức của giáo hội này để giới thiệu đến mọi người.
II. Giáo điều của Giáo hội Cơ đốc Phục Lâm
Về mặt lý thuyết, những tín đồ Cơ đốc Phục lâm ngày thứ Bảy sử dụng Kinh Thánh làm tiêu chuẩn cho đức tin và sự hành đạo. Dựa trên Kinh Thánh, họ đã soạn ra 22 tín điều cơ bản để tuyên xưng đức tin của giáo hội. So với các giáo hội Cơ đốc Phục lâm khác, Cơ đốc Phục lâm ngày thứ Bảy có xu hướng bảo thủ hơn trong quan điểm về sự bất tử của linh hồn. Theo họ, linh hồn sẽ chết giống như cơ thể, tất cả con người sẽ được phục sinh vào ngày cuối cùng và sự bất tử chỉ dành cho những người công chính, trong khi những kẻ độc ác sẽ bị tiêu diệt bằng lửa. Giáo hội Cơ đốc Phục lâm ngày thứ Bảy cũng đặc biệt nhấn mạnh về sự tái sinh rõ ràng và chắc chắn của Chúa Kitô cũng như thời kỳ “Ngàn năm bình an”. Ngày Chúa Kitô phục sinh sẽ diễn ra vào một thời điểm chưa được biết trước nhưng sẽ sớm xảy ra. Thời kỳ “Ngàn năm bình an” sẽ là thời điểm Trái đất mới được tái tạo hoàn toàn, tránh xa khỏi sự đổ nát và là nơi ở của những người được cứu chuộc. Giáo hội Cơ đốc Phục lâm thực hiện nghi lễ Rửa tội bằng cách ngâm mình xuống nước và lễ Rửa chân, coi đó là việc chuẩn bị cho sự thanh tẩy.
Như đã đề cập ở trên, điểm khác biệt cơ bản giữa Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy và các giáo hội Cơ đốc Phục lâm khác là thực hiện lễ Sabath vào ngày thứ Bảy. Theo quan điểm của họ, đó là việc thực hiện đúng lời răn thứ tư của Thiên Chúa: “Sáu ngày làm việc, nhưng ngày thứ Bảy là ngày lễ Sabath của Thượng Đế.” Vì lễ này được tổ chức vào ngày thứ Bảy, giáo hội này được gọi là Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy (Seventh day Adventist) hoặc Cơ đốc Phục lâm An thất nhật ở Việt Nam.
Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy đặc biệt quan tâm đến nơi thờ tự (thánh đường), coi đó như một ngôi nhà, một đền thờ của Chúa Thánh linh (Chúa Thánh thần), vì thế họ rất tôn trọng và bảo vệ nơi thờ tự như cơ thể con người. Các tín đồ Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy có một lối sống nghiêm khắc, kiêng cữ các loại chất kích thích như rượu, bia, thuốc lá, cà phê, khiêu vũ… Và cả các loại thực phẩm và đồ uống chứa dược phẩm.
III. Cấu trúc tổ chức của Giáo hội Cơ đốc Phục Lâm
Khác với Tin lành và các giáo hội Cơ đốc Phục lâm khác, Cơ đốc Phục lâm tuân thủ ngày thứ Bảy và có tổ chức chặt chẽ và đồng nhất trên toàn cầu, với năm cấp giáo hội.
Tổng hội Toàn cầu là cơ quan trung ương của Giáo hội, được điều hành bởi Ban chấp hành gồm ba chức danh quan trọng: Tổng hội trưởng, Tổng thư ký và Thủ quỹ. Ban Chấp hành được bầu ra bởi Đại hội đại biểu với thời hạn năm năm. Trụ sở của cơ quan Tổng hội Toàn cầu Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy được đặt tại Washington (Mỹ) và thu hút sự quan tâm của nhiều người.
2. Tổng hội khu vực – mang tính chất liên hiệp. Có tất cả 10 khu vực.
3. Liên hiệp hội – mang tính chất liên hiệp. Có tất cả 98 liên hiệp hội.
4. Địa hạt – được coi là một cấp hành chính chính thức của giáo hội. Có tất cả 437 địa hạt.
5. Chi hội (Hội thánh) – đơn vị cơ sở của Giáo hội. Có tất cả 27.117 chi hội.
Hội nghị toàn cầu của Tổng hội diễn ra sau mỗi 4 năm, trong khi đại hội Tổng hội được tổ chức mỗi 2 năm một lần, tùy thuộc vào tình hình của từng quốc gia có người tham gia hoặc không.
Tìm hiểu thêm: Định nghĩa Cơ Đốc nhân là gì?
Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy là tổ chức có số lượng tín đồ đông nhất (hơn 20 triệu tín đồ) và phạm vi hoạt động rộng nhất so với các tổ chức Cơ đốc Phục lâm khác. Tập trung vào các hoạt động truyền bá Phúc âm, xuất bản kinh sách, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ và công việc phúc lợi, từ thiện xã hội vì theo họ đây là Giáo hội được hình thành trong việc thực hiện lời tiên tri trong Kinh thánh, chuẩn bị cho đến ngày Chúa Ki tô tái lâm. Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy đã chuyển ngữ sách kinh của họ sang 610 ngôn ngữ và thổ ngữ. Lan tỏa trên toàn cầu, Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy có 56 nhà xuất bản, 4.645 chương trình trên đài phát thanh và truyền hình hàng tuần, phát sóng bằng 80 ngôn ngữ. Mỗi tuần có một chương trình phát sóng quốc tế mang tên “Tiếng nói của Tiên tri” được phát tại 1.043 địa điểm và hai chương trình truyền hình “Đức tin cho ngày nay” (với 92 địa điểm tiếp sóng) và “Đó là Kinh thánh” (với 100 địa điểm tiếp sóng). Giáo hội còn có một loạt các trường đại học, cao đẳng và giáo dục phổ thông. Tại Mỹ, giáo hội này hỗ trợ cho 51 trường đào tạo y tá, 716 trường cao đẳng và trung học, 4.583 trường tiểu học. Riêng ở miền Nam nước Mỹ có 2 trường đào tạo giáo sĩ, 2 trường đại học và 8 trường cao đẳng.
IV. Tôn giáo Cơ đốc Phục Lâm tại Việt Nam
2. Sự phát triển của Giáo hội Cơ đốc Phục lâm tại Việt NamQuá trình hình thành và sự phát triển của Giáo hội Cơ đốc Phục lâm tại Việt Nam.
Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam (còn gọi là Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy Việt Nam hoặc Giáo hội Cơ đốc Phục lâm An thất nhật Việt Nam) là một tổ chức Tin lành đứng thứ hai về thời gian truyền giáo vào Việt Nam vào năm 1929. Nó là một trong các địa hạt của Liên hiệp hội Đông Nam Á trong cơ cấu giáo hội Toàn cầu của Giáo hội Cơ đốc Phục lâm (trụ sở tại Mỹ). Hiện tại, Giáo hội Cơ đốc Phục lâm An thất nhật địa hạt Việt Nam hoàn toàn độc lập về tài chính và điều hành đối với tổ chức giáo hội Toàn cầu và các tổ chức khác. Địa hạt Việt Nam chỉ tham gia hoạt động cùng với Toàn cầu Tổng hội và các tổ chức khác trong từng giai đoạn cụ thể.
Từ năm 1915, Liên hiệp hội Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy Hoa Nam (được gọi tắt là Liên hiệp hội Hoa Nam và sau đó đổi tên thành Liên hiệp hội Mã Lai hoặc Liên hiệp hội Đông Nam á) đã cử một số giáo sỹ như Dương Thượng Phiến (Đài Loan), Tan Kia Ou (Trung Hoa), R.M. Milne (Mỹ) đến truyền giáo ở một số thành phố Việt Nam như Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định, Lạng Sơn và Sài Gòn nhưng không đạt được kết quả như mong đợi. Vào năm 1927, Liên hiệp hội Mã Lai đã cử thêm hai giáo sỹ là R.H. Wentland và F.L. Pickett đến Sài Gòn để học tiếng Việt và truyền giáo. Kết quả là, tổ chức Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy chính thức được thành lập ở Sài Gòn vào tháng 12 năm 1929, với một số ít tín đồ là người Việt, người Hoa và người Pháp. Điều này đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc truyền giáo tại Việt Nam. Sau đó, vào năm 1930, ngôi nhà nguyện đầu tiên của Cơ đốc Phục lâm đã được xây dựng tại Tri Tôn, Châu Đốc (An Giang).
Kể từ năm 1932, khi được chấp thuận giảng đạo và phát hành tài liệu tôn giáo bởi Thống đốc Nam kỳ, việc truyền đạo của Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy đã đạt được kết quả tốt hơn. Nhiều cơ sở mới được thành lập ở ba miền như Long Xuyên (An Giang), Đà Nẵng, Hà Nội, Di Linh (Lâm Đồng)… Vào khoảng năm 1937, Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy được thành lập với tên gọi là “Hội Sabattô”, với đặc điểm tổ chức lễ Sabath vào ngày thứ bảy do F.L. Pickett làm Hội trưởng. Sau đó, nhiều cơ sở tôn giáo và cơ sở xã hội được thành lập như Trường Thánh kinh Thần học ở Gia Định (năm 1939), Nhà in Thời Triệu còn được gọi là “Thời Triệu ấn Quán” (1939) phục vụ in ấn sách đạo, y tế, giáo dục, nhà thờ Phú Nhuận, trụ sở của giáo hội, 2 trường tiểu học, 1 trạm y tế tại Cần Thơ, trường Sabath ở Di Linh và Hà Nội… Trong thời gian này, hai mục sư Hội thánh Tin lành Việt Nam là Trần Xuân Phan và Lê Văn Ngọ đã gia nhập Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Ngày thứ Bảy và kéo thêm nhiều tín đồ đi theo.
Giai đoạn từ năm 1954-1975 được xem là thời kỳ phát triển đỉnh cao của tổ chức Cơ đốc Phục lâm tại Việt Nam. Theo thống kê của giáo hội, vào năm 1975, tổ chức này có hơn 30 nghìn tín đồ, 35 mục sư và truyền đạo, 43 chi hội, trong đó có ba chi hội tại Đà Lạt dành cho vùng dân tộc Cơ ho. Về mặt truyền giáo, Giáo hội Cơ đốc Phục lâm có Trường Kinh thánh đào tạo mục sư và truyền đạo, các “trường Sabath” tại các chi hội, cùng với chương trình truyền giáo “Tiếng nói Hy Vọng” được phát sóng trên 10 đài phát thanh như Sài Gòn, Nha Trang, Đà Lạt, Đà Nẵng, Huế… Ngoài ra, tổ chức này còn sở hữu một nhà in lớn với số lượng lớn các ấn phẩm kinh sách, “thư báo truyền đạo” phát hành hàng năm, lực lượng thư báo lên đến 104 người, hoạt động không ngừng nghỉ khắp Nam bộ, được đánh giá là lớn nhất trong Liên hiệp hội Đông Nam á. Tổ chức còn có nhiều cơ sở văn hoá xã hội khác như một chi nhánh Đại học đường Đông Nam á, một trường Trung học Cơ đốc Sài Gòn và 18 trường trung học, tiểu học, một bệnh viện với khoảng 40 giường bệnh được trang bị đầy đủ và hiện đại, 20 trường sabath và cơ sở nuôi dạy trẻ mồ côi, nuôi dạy cô nhi tại gia…
Bên cạnh việc truyền bá đạo, mở rộng tín đồ, giáo phái Cơ đốc Phục lâm còn tham gia đóng góp tích cực vào các hoạt động từ thiện xã hội như cứu trợ, hỗ trợ tinh thần và vật chất cho việc xây dựng cô nhi viện, bệnh viện và trường học. Từ năm 1956 đến 1975, cơ quan phát triển và cứu trợ Cơ đốc Phục lâm (ADRA) đã hoạt động rất tích cực.
2. Tôn giáo Cơ đốc Phục lâm Việt Nam có giáo lý, quy định, nghi thức và cấu trúc tổ chức.
Giáo hội Cơ đốc Phục lâm An thất nhật Việt Nam lấy Kinh thánh cả Cựu ước và Tân ước làm nền tảng đức tin và xem là được soi dẫn của Đức Chúa Trời làm tiêu chuẩn của đức tin và sự hành đạo. Tin rằng mỗi người muốn được cứu rỗi phải trải qua sự tái sinh. Giáo hội nghỉ ngày thứ Bảy, ngày Sabath, ngày thánh này được dùng làm việc tạo thế, cùng là dấu chỉ của sự thánh hoá, biểu hiện cho sự tín giáo an nghỉ khỏi việc làm tội lỗi của mình để vào nơi an nghỉ linh hồn và Đức Chúa Giêsu đã hứa cho kẻ đến cùng Ngài. Tin mười điều răn chỉ tội ra, án phạt của tội lỗi là sự chết, nhưng không thể cứu vớt kẻ phạm tội khỏi tội lỗi của mình cũng như không thể ban quyền năng để khỏi phạm tội. Chính tình yêu ân điển của Đức Chúa Trời mà việc này có thể thực hiện được. Tin chỉ mình Đức Chúa Trời có sự bất tử, con người mang lấy thể chất thừa tự tội lỗi và chết. Sự sống vĩnh cửu là sự ban cho của Đức Chúa Trời qua đức tin của Chúa Giê su, sự bất tử được ban cho những người công bình còn sống khi được cất lên không trung để gặp Chúa. Tin rằng người chết không hay biết gì, sẽ nằm yên trong mồ từ khi chết đến khi được phục sinh. Tin rằng sẽ có sự phục sinh cho những người công bình và không công bình; sự phục sinh cho người công bình sẽ thực hiện trước vào lúc đấng Cơ đốc Phục lâm, và sự phục sinh người không công bình sẽ diễn ra sau đó một ngàn năm, vào lúc chấm dứt thời kỳ ngàn năm. Tin rằng kẻ không hối cải sau cùng sẽ bị huỷ diệt bởi lửa để trở về tình trạng không còn có nữa. Tin vào một ngày nào đó Chúa sẽ tái lâm, tin rằng những người theo Chúa Cơ đốc phải là những người thánh thiện, không thể theo tôn chỉ không thánh khiết cũng không dung hoà với đường lối không công bình của thế gia, không ưa thích khoái lạc tội lỗi của nó, cũng không mang lấy hình ảnh rồ dại của nó. Tin rằng tín hữu phải nhận thức thân thể họ là đền thờ của Đức Thánh linh, vì vậy họ phải trang phục chỉnh tề, đoan trang, để lộ ra đức hạnh. Trong việc ăn uống cũng như trong lối sống, họ phải khuôn đúc cuộc đời để trở thành những môn đồ của Đấng nhu mì, khiêm nhường. Những người theo Chúa Cơ đốc từ bỏ mọi thứ rượu, bia, thuốc lá, cà phê, cau trầu, những chất ma tuý, cờ bạc, khiêu vũ… Không ăn những thức ăn mà Kinh thánh không cho phép ăn và tránh mọi tập tục thói quen làm xú uế thể xác cũng như linh hồn. Tin rằng sự phục sinh của Chúa Cơ đốc là niềm hy vọng trọng đại của hội thánh, là tuyệt đỉnh của Tin lành và chương trình cứu rỗi. Sự tái lâm của Chúa là thực sự rõ ràng, trông thấy được. Nhiều biến cố trọng đại kèm chung với sự tái lâm của Ngài như việc phục sinh kẻ chết, huỷ diệt kẻ ác, luyện sạch địa cầu, ban thưởng cho người công bình và thành lập nước đời đời của Ngài… Tin rằng Đức Chúa Trời sẽ làm mọi sự lên mới, địa cầu sẽ được phục hồi nét đẹp nguyên thuỷ, sẽ là nơi cư ngụ vĩnh viễn của các thánh, của Đức Chúa Trời.
Sau năm 1954, Cơ đốc Phục lâm tại Việt Nam chính thức được đổi tên thành Giáo hội Cơ đốc Phục lâm An thất nhật Việt Nam và là cấp Địa hạt của Liên hiệp hội Đông Nam á trong cơ cấu giáo hội Toàn cầu của Cơ đốc Phục lâm. Ban quản trị của Giáo hội Cơ đốc Phục lâm ở Việt Nam bao gồm một Hội trưởng, một quản lý, một thư ký và 11 uỷ viên phụ trách các lĩnh vực khác nhau: Trường Sabath, Tín hữu truyền đạo, Thư báo truyền đạo, Thanh niên và tiết chế, Chiến tranh, Tu thư, Giao tế, Tiếng nói hy vọng, ấn loát, Giáo dục, Y tế. Tổ chức này rất quan trọng và có tầm ảnh hưởng đến đời sống tôn giáo của người Việt Nam.
Tuy nhiên, một điều đáng chú ý và cũng là vấn đề băn khoăn của nhiều mục sư, truyền đạo và tín đồ Cơ đốc Phục lâm ở miền Nam trước năm 1975 là các chức vụ quan trọng trong giáo hội đều được giới giáo sĩ nước ngoài kiểm soát. Sau khi miền Nam được giải phóng, giống như các tổ chức Tin lành khác, các giáo sĩ nước ngoài đã rút lui và những mục sư truyền đạo liên quan đến chế độ cũ đã di tản ra nước ngoài. Các thành viên còn lại của Cơ đốc Phục lâm ở miền Nam đã chọn mục sư Lê Công Giáo làm Hội trưởng và sau đó tổ chức Đại hội đồng vào ngày 18/1/1976 để bầu mục sư Nguyễn Xuân Sơn làm Hội trưởng, ông Phạm Văn Hoàng làm Tổng thư ký, mục sư Trần Ngọc Đe làm Thủ quỹ và 8 uỷ viên gồm giám mục Nguyễn Văn Thu, mục sư Dương Thưởng, mục sư Trần Công Tấn, mục sư Nguyễn Quốc Thái, Giám mục Trương Chấn Võ, giám mục Nguyễn Đăng Phụng, giám mục Lý Cập Thời và mục sư Lê Văn Út.
3. Hiện tại, tình trạng của Cộng đồng Phục lâm Việt Nam đang được xem xét.
Hiện nay, Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam có hơn 16.000 tín đồ, 07 mục sư, Trưởng lão, giám mục, 102 Chấp sự, (không có chức danh truyền đạo) 10 chi hội, hơn 100 điểm nhóm, 7 nhà thờ và một trụ sở văn phòng làm việc giáo hội, hoạt động trên 25 tỉnh, thành phố chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, tập trung ở các tỉnh như: Lâm Đồng, Đăk Lăk, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, Cần Thơ, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Tiền Giang, Phú Yên, Quảng Trị. Cấu trúc tổ chức của giáo hội bao gồm 2 cấp: Ban Quản trị Giáo hội (cấp trung ương) đóng trụ sở tại 224 Phan Đăng Lưu, phường 3, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh và cấp chi hội (cấp cơ sở). Mục sư Hội trưởng Trần Công Tấn là người đứng đầu Ban Quản trị giáo hội hiện nay.
Vì nhiều nguyên nhân cả cá nhân và khách quan, từ năm 1976 đến 2008 giáo hội chưa tổ chức được cuộc họp Đại hội đồng ở mức độ toàn cầu. Một số thành viên trong Ban Quản trị đã qua đời vì tuổi cao, vì vậy thành phần Ban Quản trị chủ yếu là những người được bầu cử hoặc bổ nhiệm sau Đại hội đồng năm 1976.
Thực hiện chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, ngày 18/12/2006 Ban Tôn giáo Chính phủ đã cấp Giấy chứng nhận Đăng ký hoạt động tôn giáo số 215/GCN-TGCP cho Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam theo quy định của pháp luật. Được sự chấp thuận của Ban Tôn giáo Chính phủ và UBND Tp Hồ Chí Minh, từ 22-24/10/2008 tại thành phố Hồ Chí Minh, Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam tổ chức Đại hội đồng lần thứ nhất nhiệm kỳ 2008-212. Nội dung chính của Đại hội đồng là Bồi linh, thông qua Hiến chương, giáo luật kỷ luật, quy chế mục sư, bầu Ban Quản trị, kế hoạch công tác nhiệm kỳ 2008-2012. Ban Quản trị mới gồm 13 người, mục sư Trần Công Tấn được bầu làm Hội trưởng, mục sư Trần Thanh Truyện làm Tổng thư ký, bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết làm Tổng Thủ quỹ. Thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ và ý kiến thống nhất của các ngành chức năng liên quan, ngày 5/12/2008, Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ đã ký Quyết định số 238/2008/QĐ-TGCP công nhận về mặt tổ chức cho Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam. Ngày 21/12/2008 tại nhà thờ số 2 Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chính Minh, Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam đã long trọng tổ chức đón nhận Quyết định công nhận. Thay mặt Giáo hội, mục sư Trần Công Tấn đã cảm ơn sự ủng hộ, giúp đỡ của chính quyền các cấp đã tạo điều kiện để tín đồ của Giáo hội được sinh hoạt theo đúng quy định của pháp luật trong thời gian qua và khẳng định sẽ thực hiện tốt đường hướng ”Thờ phượng Đức Chúa Trời Ba Ngôi hằng sống, Kính Chúa Yêu người phục vụ Tổ quốc, hoạt động theo pháp luật”. Sau khi được công nhận tổ chức, một nhiệm kỳ hoạt động của Giáo hội đã có bước phát triển và trưởng thành toàn diện về nhiều mặt. Được sự chấp thuận của Ban Tôn giáo Chính phủ và UBND thành phố Hồ Chí Minh, dự kiến từ ngày 12-14/12/2012, Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam tổ chức Đại hội đồng lần thứ hai nhiệm kỳ 2012-2016.
Trả lời