Giáo phái Đạo Bà ra đời vào thời điểm nào?
Theo Lời Phật tìm hiểu, Bà la môn giáo (Brahmanism) xuất hiện vào thời kỳ hậu Veda (khoảng thế kỷ X Tr.CN) trong xã hội cổ đại Ấn Độ, và nhanh chóng trở thành tôn giáo chính thống của xã hội này.
Trong quá trình phát triển của mình, Bà la môn giáo đã áp dụng những cải cách dựa trên sự hòa trộn giữa các yếu tố tín ngưỡng dân gian, Phật giáo và đạo Jaina để trở thành tân Bà la môn giáo vào thế kỷ thứ IV SCN (gọi là Ấn Độ giáo, đạo Hindu). Hiện nay, Bà la môn giáo có khoảng 900 triệu tín đồ, chủ yếu tập trung ở Ấn Độ và một số nước có ảnh hưởng từ văn hoá Ấn Độ.
Bà la môn giáo tôn thờ Brahma (Phạm Thiên), tin rằng Brahma đã tạo ra thế giới và là chúa tể của các thần, là nguồn gốc của vũ trụ, có quyền năng vô biên và hiện diện ở ba ngôi như biểu tượng cho ba giai đoạn của sự sống: Brahma (thần sáng tạo), Vishnu (thần bảo tồn) và Shiva (thần phá hủy). Bà la môn giáo sử dụng kinh Veda làm cơ sở, được chia thành bốn loại là: Rigveda (có nghĩa là “tri thức”), Samaveda, Jadzhuveda và Atharvaveda để phù hợp với các chức năng tư tế của các tu sĩ Bà la môn.
Giáo sĩ Bà la môn được xem là những người có vị trí cao nhất trong xã hội, và họ cần tuân thủ 4 nguyên tắc cơ bản như sau: phải có nguồn gốc chính hãng của giáo sĩ Bà la môn mà không bị pha trộn với đẳng cấp khác, phải có phẩm hạnh và thể hiện sự uyên bác, giúp đỡ tín đồ thực hiện các nghi lễ tôn giáo và giao tiếp với các thần linh.
Theo các nhà nghiên cứu, Bà la môn giáo đã được đưa vào Chăm pa từ rất sớm, được chứng minh bằng các dấu vết trên các bia ký bằng chữ Phạn ở Quảng Nam và Phú Yên. Lịch sử ghi nhận, từ thế kỷ II đến thể kỷ IX SCN, đạo Bà la môn luôn được các triều đại của Chăm pa coi trọng và tôn sùng. Tuy nhiên, tôn giáo này chỉ được phổ biến trong tầng lớp vua chúa, quý tộc và tăng lữ Bà la môn, còn dân chúng ở các tầng lớp dưới vẫn giữ được truyền thống bản địa. Bà la môn giáo không trở thành một tôn giáo phổ quát trong xã hội Chăm. Khi tầng lớp vua chúa, quý tộc Chăm không còn nữa, Bà la môn giáo dần dần mất đi vị thế trong xã hội Chăm. Người Chăm đã lựa chọn, loại bỏ những gì không phù hợp với đời sống dân chúng của giáo lý Bà la môn và thêm vào những yếu tố bản địa để tạo nên một tôn giáo riêng của dân tộc mình – Bà la môn giáo của người Chăm. Người Chăm theo Bà la môn giáo được gọi là Chăm Bà la môn hoặc Chăm Ahier, Chăm Rặt (Chăm Jat).
Đặc tính của tôn giáo Bà-la-môn tại Việt Nam
Người Chăm Bà la một dân tộc sinh sống ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Giáo lý, giáo luật của Bà la môn giáo trong người Chăm không được tổ chức một cách rõ ràng, không còn giữ được đầy đủ các quy định của đạo Bà la môn nguyên thuỷ mà đã được thích nghi và hòa quyện vào phong tục, tập quán của người Chăm. Bộ kinh Veda đã được các tăng lữ tu sĩ (Passeh) Chăm Bà la môn dịch sang tiếng Chăm từ rất lâu, được ghi lại bằng chữ Chăm trong các tài liệu cổ của người Chăm, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác và được điều chỉnh trong quá trình áp dụng để phù hợp với thực tiễn tín ngưỡng, tôn giáo và đời sống xã hội Chăm trong suốt các thời kỳ.
Những nghi lễ như cưới hỏi, tang ma cũng như các nghi thức cúng bái đều mang tính bản địa của xã hội Chăm từ xa xưa. Bà la môn giáo là một tôn giáo tôn trọng quyền lực, khi được nhập vào xã hội mẫu hệ của người Chăm đã trải qua quá trình thích nghi và biến đổi, thể hiện ở một số điểm chính sau:.
Giáo phái Bà la của quan niệm về Đấng tạo hoá xem Brahma là thần tối cao sáng tạo, toàn năng và chi phối vũ trụ. Trong khi đó, người Chăm Bà la lại tin rằng Đấng tạo hoá là “Mẹ xứ sở” Pô Inư Nưgar.
Về phương thức tang ma, giáo lý của Bà la môn giáo quy định rằng: “Sau khi thiêu, những mảnh xương chưa cháy hết và tro được thu gom rồi thả xuống sông Hằng”. Trong khi đó, người Chăm Bà la môn cũng thực hiện việc thiêu người chết nhưng chỉ giữ lại chín mảnh xương trán và tổ chức lễ nhập kút dòng họ mẹ như một biểu tượng cho những người đã qua đời.
Nghi lễ cưới hỏi của người Chăm Bà la môn không tuân theo quy định của Bà la môn giáo chính thống mà hoàn toàn bị chi phối bởi chế độ mẫu hệ Chăm.
Tuy nhiên, những đặc trưng cơ bản của giáo lý và giáo luật Bà la môn vẫn được giữ gìn trong cộng đồng Chăm Bà la môn dưới hình thức của các quan niệm tín ngưỡng và tôn giáo, cùng những quy định cụ thể liên quan đến cuộc sống và đạo đức của người Chăm Bà la môn. Giáo phái Bà la môn có sức ảnh hưởng lớn đối với văn hóa Chăm, góp phần làm cho nó trở nên đa dạng và phong phú hơn, được thể hiện rõ ràng qua các tác phẩm kiến trúc, điêu khắc, chữ viết và các hoạt động thờ cúng tôn giáo của người Chăm.
Nghi lễ của người Chăm Bà có nhiều sự kiện quan trọng, được tính theo lịch Chăm (thường sớm hơn 3 tháng so với lịch Dương), bao gồm Lễ Yuon Yang diễn ra vào tháng 4, Lễ hội Katê vào tháng 7, Lễ Cabur vào tháng 9 và Lễ mở cửa tháp vào tháng 11.
Hiện tại, tình trạng hoạt động của giáo phái Bà-la-môn tại Việt Nam đang được quan tâm.
Dữ liệu thống kê từ Ban Tôn giáo Chính phủ cho thấy đến năm 2021, ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, có hơn 68.000 người theo đạo Bà la môn của dân tộc Chăm (trong đó có hơn 48.000 người ở Ninh Thuận và gần 20.000 người ở Bình Thuận).
Hoạt động tôn giáo của người Chăm Bà thường được chia thành các khu vực cụ thể, rõ ràng và được hướng dẫn bởi các vị chức sắc. Họ thực hiện các nghi lễ và sinh hoạt tôn giáo tại các tháp và gia đình mình. Niềm tin tôn giáo của họ sâu sắc và được thể hiện qua sự nghiêm túc, thành kính và tính cộng đồng cao.
Các Tu sĩ (Passeh) là những người đứng đầu trong xã hội Chăm Bà la môn, được coi là những trí thức, họ biết chữ Chăm, giữ các tài liệu Chăm cổ quy định về các nghi thức hành lễ, hiểu biết tập tục, truyền bá và thực hiện các nghi thức tôn giáo. Về mặt xã hội, họ thường thuộc tầng lớp quý tộc cũ, được duy trì trong xã hội Chăm theo truyền thống gia đình. Ngoài các chức sắc Bà la môn, còn có các thầy cúng dân gian như thầy bóng, thầy vỗ trống paranưng, thầy kéo đàn Kanhi, bà bóng,….
Đến năm 2021, có khoảng 350 chức sắc và chức vụ Bà la môn giáo (trong đó có khoảng 180 vị ở Ninh Thuận và 170 vị ở Bình Thuận). Tất cả đều là người cao tuổi, được tôn trọng trong cộng đồng, nhưng thường chỉ hiểu được tiếng Chăm và không biết tiếng Việt. Do đó, quản lý và điều hành các hoạt động hành chính của đội ngũ này gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, đội ngũ chức sắc Bà la môn giáo là nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển của tôn giáo, họ là người định hướng hoạt động tôn giáo và thực hiện các nghi lễ tôn giáo, đồng thời là nơi cả cộng đồng dựa vào về tinh thần. Tuy nhiên, đội ngũ này còn nhiều hạn chế về khả năng chỉ đạo và điều hành, một số còn bảo thủ và không phù hợp với đời sống hiện đại.
Các cơ sở thờ tự chủ yếu của người Chăm Bà la môn là bao gồm hệ thống các đền, tháp và các cơ sở nhỏ lẻ khác như miếu, lăng, dinh, nhà tự, chùa,… Hiện nay, ở cả hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận có tổng cộng 46 địa điểm thờ tự của người Chăm Bà la môn.
Trong hệ thống đền thờ của dân tộc Chăm Bà la môn hiện nay, các đền, tháp có vị trí đặc biệt quan trọng, đó là nơi thờ cúng các vị thần linh và những vị vua trị vì vương quốc Chăm-pa cổ mà người Chăm Bà la môn tôn kính. Hằng năm vào tháng 11 Chăm lịch, người Chăm Bà la môn tổ chức lễ mở cửa đền, tháp. Đây là nghi lễ mở đầu cho hàng loạt các nghi lễ cúng tế diễn ra quanh năm ở các đền, tháp Chăm Bà la môn. Đa số các đền, tháp đã có từ xa xưa và được công nhận là di tích lịch sử văn hoá.
Vào ngày 18/6/2012, Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã quyết định công nhận tổ chức tôn giáo cho cộng đồng Chăm Bà la môn, được gọi là Hội đồng Chức sắc Chăm Bà la môn tỉnh Ninh Thuận, có trụ sở tại thôn Phước Đồng 2, xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước. Hội đồng Chức sắc này bao gồm 03 Ban Phong tục phụ trách 03 khu vực đền tháp và 24 Ban Phong tục thôn, khu phố.
Vào ngày 19/12/2012, Ủy ban tỉnh Bình Thuận đã ban hành Quyết định công nhận tổ chức tôn giáo có tên Hội đồng Chức sắc Bà la môn giáo tỉnh Bình Thuận Thuận. Hội đồng này bao gồm Tổ chức sắc hoặc Ban Phong tục xã, địa hạt (nhiệm kỳ 03 năm) và Ban cai quản hoặc Ban quản lý do Hội trưởng hoặc Trưởng ban đứng đầu chịu trách nhiệm bảo quản nơi thờ tự và tổ chức các hoạt động tôn giáo tại các đền, tháp, dinh. Việc này đã thu hút sự quan tâm của nhiều người.
Nhiệm kỳ đại hội của Hội đồng Chức sắc Chăm Bà la môn ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận kéo dài 05 năm. Các hoạt động của hai Hội đồng này được duy trì ổn định, hoàn thành tốt vai trò lãnh đạo, điều hành các hoạt động tôn giáo của cộng đồng Chăm Bà la môn tỉnh. Đồng thời, họ đã có những cải tiến trong việc xây dựng quy ước thực hành các lễ nghi, thống nhất ngày lễ cho các khu vực đền tháp; thúc đẩy mối quan hệ tốt đẹp với chính quyền các cấp và các tôn giáo bạn; khuyến khích tín đồ tham gia các phong trào ở địa phương và tham gia hoạt động bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Cộng đồng Chăm Bà la môn giáo được Đảng, các cấp chính quyền quan tâm thường xuyên ở cả góc độ dân tộc và tôn giáo như: thường xuyên gặp gỡ để hiểu tâm tư, nguyện vọng của chức sắc, chức vụ, tín đồ, đặc biệt là trong các dịp lễ trọng; hỗ trợ, động viên khi nhận được phong pháp chức sắc, chức vụ, khi bị ốm đau, qua đời,…; Giải quyết kịp thời những khó khăn trong quá trình hoạt động tôn giáo của cộng đồng.
Tuy nhiên, chức vụ, công việc và tín đồ của giáo phái Chăm Bà vẫn đang gặp nhiều khó khăn và hạn chế khi thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế, xã hội, tôn giáo và dân tộc. Vì vậy, cần tăng cường tuyên truyền và phổ biến kiến thức pháp luật cho chức vụ, công việc và tín đồ của giáo phái Bà la môn thông qua các hội nghị, hội thảo và tập huấn. Đồng thời, cần hướng dẫn ban lãnh đạo các tổ chức tôn giáo điều hành công tác đạo sự hiệu quả, góp phần đưa hoạt động tôn giáo vào nền nếp và tuân thủ quy định pháp luật, đồng thời ngăn ngừa các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật.
Tìm hiểu thêm: Phật giáo có mối liên hệ với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo hay không?
Trả lời