Tín ngưỡng thờ cúng thành hoàng dưới triều Nguyễn (Ngọc Lâm)

Tín ngưỡng thờ cúng thành hoàng dưới triều Nguyễn (Ngọc Lâm)

Theo Lời Phật tìm hiểu, Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng là một tín ngưỡng khá phổ biến ở làng xã của người Việt. ”Người Việt phổ biến nhất, nổi bật nhất là thờ thần ở làng, không làng nào là không có đình, đền, miếu thờ thần”1.

Bởi vậy, thần Thành hoàng là biểu tượng linh thiêng nhất của toàn làng, tôn giáo thờ Thành hoàng là sự kết hợp tuyệt vời của tôn giáo sùng kính con người và tôn giáo sùng kính thần linh.

Văn hóa Việt Nam về bản chất là một nền văn hóa xóm làng. Làng Việt Nam từ lâu đã là nơi sinh ra và bảo tồn văn hóa làng – văn hóa dân tộc. Cho đến nay, văn hóa làng vẫn tồn tại với sự biến đổi trong lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng, văn hóa dân gian…. Làng Việt ở đồng bằng Bắc bộ là nơi truyền bá các giá trị văn hóa làng, giữ gìn nhiều hình thức tôn giáo và văn hóa truyền thống, trong đó có tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng. Tuy nhiên, truyền thống thờ Thành hoàng ở nước ta chỉ thực sự phát triển và có quy củ dưới triều đại Nguyễn.

NGUỒN GỐC TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG.

Thành hoàng làng (Thành hoàng) là thuật ngữ chung để chỉ thần được tôn thờ trong làng xã Việt Nam. Tương tự như Táo công và Thổ công, Thành hoàng quản lý và quyết định sự may mắn của một làng và thường được tôn thờ tại đình làng. Do đó, hầu hết các làng quê hoặc khu phố nghề (trong thành phố) đều có đình (hoặc đền, miếu) dành cho việc tôn thờ Thành hoàng của làng hoặc phường hội. Thành hoàng là người đã có đóng góp cho dân tộc và đất nước, xây dựng làng xóm, thành lập nghề nghiệp hoặc đóng góp vào sự phát triển của một nghề (ông tổ của nghề).

Phong tục thờ Thành hoàng tại nước ta là do ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa truyền sang từ thời kỳ Đường. Theo Phan Kế Bính, mặc dù trước đó người dân ta đã có những tín ngưỡng dân gian, nhưng sau khi được nhập khẩu vào làng xã Việt Nam, phong tục thờ Thành hoàng nhanh chóng trở thành một phần không thể thiếu trong tâm thức của người Việt, phát triển đa dạng, thể hiện truyền thống “không quên nguồn cội”. Tôn thờ Thành hoàng là một nhu cầu tâm lý, người dân tôn thờ Thành hoàng để phục vụ cho cuộc sống hiện thực, là một nơi hỗ trợ tinh thần không thể thiếu, là động lực thúc đẩy sản xuất và duy trì cuộc sống ổn định.

Sách ”Trung Quốc bí ẩn văn hóa” viết: ”Thành hoàng tức thành hào, hào có nước gọi là trì, không có nước gọi là hoàng. Đắp đất làm thành, đào hào làm hoàng”. Nhiều học giả cho rằng từ Thành hoàng bắt nguồn từ câu của kinh dịch ”Thành phục vụ hoàng”.

Theo giáo sư Hà Văn Tấn, thần Thành hoàng đã xuất hiện từ sớm ở Trung Quốc và được ghi lại trong Lễ Ký, sớm nhất là thời đại Tam quốc (220-265). Đền thờ Thành hoàng do Tôn Quyền xây dựng vào năm 239 ở Vu Hồ, An Huy. Trong thời Tùy (581-618), người ta đã có tục lệ sử dụng động vật để cúng Thành hoàng. Thời Đường (618-907), việc thờ cúng Thành hoàng đã trở nên phổ biến, có cả thơ văn để tôn vinh Thành hoàng. Từ đó, hình ảnh của Thành hoàng không chỉ còn là một thành trì mà còn được nhân hóa thành một con người cụ thể.

Lễ hội Kỳ Yên được tổ chức tại Đình Bình Thủy, Cần Thơ. Nguồn: trang web thamhiemmekong.com.
Lễ hội Kỳ Yên, Đình Bình Thủy, Cần Thơ. Nguồn: thamhiemmekong.com

Theo Gia Thái Cối Kê chí của Lục Du thì Bàng Ngọc ban đầu là tướng nhà Tùy, sau khi quy phục nhà Đường, ông trở thành quan chức cao cấp như Thượng thư Bộ Công, Đô đốc U Châu, bởi vì ông đã có những đóng góp tốt đẹp cho dân chúng, sau khi qua đời ông được phong làm Thành hoàng. Thời Tống (960-1271), tất cả các phủ, châu, huyện trên khắp Trung Quốc đều có đền thờ Thành hoàng. Vua Tống thường xuyên phong thần cho các Thành hoàng. Trong thời kỳ Nguyên (1271-1368), miếu Thành hoàng được thành lập ở Thượng Đô. Đến thời Minh (1368-1644), Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã phong nhiều Thành hoàng, ông nói: “Trẫm ủy quyền cho Thành hoàng để giám sát việc làm thiện, làm ác của dân chúng trong các phủ, châu, huyện, để mang lại phúc lành hay tai họa” (Tục văn hiến thông khảo, quần tư khảo). Thời Thanh (1644-1911), việc thờ Thành hoàng vẫn được coi trọng. Có thể nói, ở Trung Quốc, Thành hoàng là vị thần bảo vệ thành trì cấp quốc gia, cấp phủ, châu, huyện và cư dân trong thành.

Tín ngưỡng Thành hoàng nhập vào Việt Nam thời Bắc thuộc. Theo Việt Điện U Linh, năm Trường Khánh thứ 3 (823) đời Đường Mục Tông, Lý Nguyên Gia đến làm đô hộ thấy cửa Bắc thành Long Biên có dòng nước chảy ngược, địa thế đẹp, mới tìm chỗ cao ráo dời phủ lỵ vào đóng tại đây, sửa dựng phủ, nhà cửa, mở nhiều cổng ngõ. Nguyên Gia sai giết trâu bò, tổ chức tiệc mời các kỳ lão trong làng đến dự, rồi hỏi chuyện về Vương (họ Tô tên Lịch) và ngỏ ý muốn tâu xin thờ Vương làm Thành hoàng. Mọi người đều vui mừng và đồng ý, hưng công xây dựng ngôi đền rất tráng lệ…. Đến thời Cao Biền sang đắp thành Đại La (866), nghe tiếng Vương Anh Linh nên sửa lễ đến tế, tôn làm ”Đô phủ Thành hoàng Thành quân”. Vua Lý Thái Tổ, sau khi dời đô ra thành Đại La, đổi tên Thăng Long (1010), thường mơ thấy một ông già đầu bạc, đứng trước bệ vái chào hô vạn tuế…. Vua tỉnh dậy, sai quan đến tế, phong làm ”Quốc đô Thăng Long Thành hoàng Đại vương”. Từ đó, cư dân trong thành đến lễ cầu đảo, thề ước, đều thấy linh ứng. Năm Trùng Hưng thứ 1 nhà Trần (1285) sắc phong hai chữ Bảo quốc, năm thứ 4 (1288) thêm hai chữ Trấn linh, năm Hưng Long thứ 21 (1313) gia phong hai chữ Định bang.

Như vậy, sau một số lần thay đổi quyền phong vào thời Trần Nhân Tông (1278-1293) và Trần Anh Tông (1293-1314), vị Thành hoàng có tên là ”Bảo quốc Trấn linh Định bang Thành hoàng Đại vương”. Theo Việt Điện U Linh, Lê Long Đĩnh trước khi lên ngôi đã sinh sống tại Đằng Châu. Khi trở thành vua, Lê Long Đĩnh (1005-1009) đã đổi tên Đằng Châu (Hưng Yên) thành phủ Thái Bình và phong cho các thổ thần ở đây làm Thành hoàng, với tên gọi ”Khai thiên Thành hoàng Đại vương”. Các vua Trần vào năm Trùng Hưng thứ 1 (1285) đã phong ”Khai thiên Trấn quốc Thành hoàng Đại vương”, và vào năm thứ 4 (1288) gia phong hai chữ Trung phụ. Vào năm Hưng Long thứ 21 (1313) cũng gia phong hai chữ Tá dực. Như vậy, sau một số lần thay đổi quyền phong trong thời Trần, vị Thành hoàng có tên là: ”Khai thiên Trấn quốc Trung phụ Tá dực Thành hoàng Đại vương”.

Trong thời kỳ Việt Nam bị xâm lược bởi nhà Minh, theo sách An Nam chí của Cao Hùng Trưng, quan lại Minh đã tuân theo chế độ Trung Quốc, xây dựng miếu Thành hoàng ở các phủ, châu, huyện của Việt Nam. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, vào tháng 4/1449, Lê Nhân Tông (1441-1459) đã bắt đầu xây dựng đàn thờ thần Đô Đại Thành hoàng, đàn thờ thần gió, mây, sấm, mưa và đàn thờ ma quỷ mà không ai được tế tự để tứ thời cúng lễ.

QUY ĐỊNH THỜ THÀNH HOÀNG DƯỚI THỜI NGUYỄN.

Theo cuốn sách “Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ”, tại kinh đô Huế trong thời Nguyễn, việc thờ cúng các thần được thực hiện tại đàn, đền, miếu… Riêng miếu thờ có nhiều loại như miếu thờ Công thần mở nước, miếu thờ Công thần đời Trung Hưng, miếu thờ Công thần Trung tiết, miếu thờ Công thần các trực, tỉnh; miếu Tiên y, miếu thờ Thần mưa, miếu thờ Thần gió, miếu thờ Nam Hải Long Vương, miếu thờ Thần cửa bể Tư Hiền, miếu thờ Hà Bá, miếu thờ Thần lửa, miếu thờ Thần súng, miếu Hội đồng, miếu thờ Thành hoàng…. Ở kinh đô Huế, miếu thờ Thành hoàng được xây dựng vào năm 1809: “Gia Long năm thứ 8, theo quyết định; xây dựng miếu ở bên trong kinh thành, đặt một án phụng thờ Thành hoàng tại kinh đô, 2 bên chái bên đông bên tây đều đặt 5 án thờ phụ, phụng thờ các Thành hoàng tỉnh…”8.

Minh Mạng vào năm thứ 20 (1839), chính thức thay đổi lời tâu của bộ lễ từ miếu Hội đồng thành miếu Thành hoàng: “Khi đất nước mới phục hồi, chúng ta đã xây dựng miếu thờ Thành hoàng và xây thêm hai nhà tòng tự. Nhà bên tả thờ các vị thần Thành hoàng của các tỉnh từ Quảng Bình trở về phía Nam. Nhà bên hữu thờ các vị thần Thành hoàng từ Hà Tỉnh trở ra phía Bắc. Các tỉnh có miếu Hội đồng riêng để thờ các vị thần đặc biệt, mà không đặt riêng miếu thờ Thành hoàng. Ôi! Thành hoàng đã có công đức lớn trong việc ngăn chặn tai hoạ và bảo vệ dân chúng. Để tôn vinh Thành hoàng, xin mệnh lệnh cho các địa phương xây thêm các tượng Thành hoàng trong miếu Hội đồng. Bàn thờ các vị thần đặt ở hai phòng bên tả và bên hữu. Biển treo trong miếu sẽ được khắc lại để trở thành biển miếu Thành hoàng. Các bài vị tòng tự trong miếu Thành hoàng ở kinh đô sẽ được đem ra đốt cháy”.

Nhưng khi Thiệu Trị lên ngôi, vua thành lập miếu Thành hoàng ở các tỉnh, trong khi miếu Hội đồng vẫn được giữ nguyên như trước. “Thiệu Trị năm đầu (1841) tuyên bố: Từ trước đến nay, các thần vị Thành hoàng trực thuộc các tỉnh đã được tôn thờ ở miếu Đô Thành hoàng tại kinh thành. Năm trước, Bộ lễ đã đề xuất cho các hạt tạo ra các bài thần, để thờ ở miếu Hội đồng thực hạt của mình, sau đó đổi tên miếu Hội đồng thành miếu Thành hoàng…. Trẫm tôn kính di sản lớn, tuân theo ý của tiên đế để tiến hành các lễ trọng, sắp xếp các vật phẩm thần thánh, cho rằng: Các vị thần trước đây ở miếu Hội đồng, chủ yếu là các thần đẳng cấp cao, đã giúp đất nước bảo vệ dân chúng, có công đức rõ ràng, nên không thích hợp thay đổi ngay lập tức…. Do đó, để các tỉnh/trung ương có thể tôn thờ Thành hoàng tại các địa điểm gần tỉnh, thành, doanh; còn miếu Hội đồng cũ vẫn được thờ phụng theo như trước, không nên thay đổi.” Từ năm 1841 thời Thiệu Trị, ngoài miếu Thành hoàng ở kinh đô Huế, các tỉnh/thành đều có miếu thờ Thành hoàng.

Riêng Nam bộ một số địa điểm có đền thờ Thành hoàng khá sớm. Ví dụ như ở Gia Định, đền Thành hoàng được xây dựng vào năm 1807, sớm hơn hai năm so với đền Thành hoàng ở kinh đô Huế: ”Ở phía Nam sông Tân Bình, cách phía đông nam trấn 6 dặm rưỡi, nguyên xưa là ngôi đình cúng tế các vị âm thần. Năm Gia Long thứ 6 (Đinh Mão, 1807) phụng chỉ dựng nhà ngói làm đền Thành hoàng trong trấn, xuân thu 2 kỳ tế lễ, trấn quan đến hành lễ”11. Cũng theo sách ”Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ”, Thiệu Trị năm thứ 7 (1847) đã có Thành hoàng ở kinh đô, các tỉnh và xã. Thành hoàng ở các tỉnh vốn là một vị thần bảo hộ đất cho một tỉnh và được thờ ở đền Thành hoàng. Nhưng vấn đề đặt ra là Thành hoàng ở các dân xã thì có từ bao giờ.

Lễ hội truyền thống của thôn Bầu, thuộc xã Kim Chung, Đông Anh, HN. Nguồn: Trang web của huyện Đông Anh.
Lễ hội truyền thống thôn Bầu, xã Kim Chung, Đông Anh, HN. Nguồn: Website huyện Đông Anh

Trước đây nhiều người cho rằng Thành hoàng làng chỉ có từ thời Lê. Tư liệu chứng minh là tấm bia được xây dựng vào thế kỷ XIX, ghi lại sắc phong thời Lê Trung Hưng, được tìm thấy tại xã Thường Sơn, huyện Thủy Nguyên, tỉnh Kiến An (nay thuộc TP Hải Phòng), có ghi: ông tù trưởng họ Lại, húy Bốn, vợ họ Đào, sinh con trai có tài, tham gia chiến đấu chống quân Nguyên – Mông, tiêu diệt Ô Mã Nhi, sau đó được phong lên Thành hoàng Trần triệu phò mã đô úy thượng phẩm đại liêu ban, quan nội hầu, nội quốc công, Thượng đẳng Phúc Đại Vương. Hoặc một tấm bia khác được xây dựng vào năm Hồng Đức thứ 18 (1487) tại ngôi đền Trăn Tân xã Phúc Thọ, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh do Nguyễn Đình Tuấn, tiến sĩ năm 1841, soạn bia. Nội dung bia chi tiết kể về nghi thức rước thần trong hội làng12.

Sau khi phát hiện tại ngôi đền thờ thần ở xã Lại Yên, huyện Hoài Đức (TP Hà Nội) có bia đá khắc bài bia của Trương Hán Siêu ghi niên đại vào ngày 20/11, mùa đông năm Nhâm Tý, năm Hưng Long thứ 20 (tức ngày 19/12/1312) đời Trần Anh Tông (1293-1314), thì vấn đề phong Thành hoàng cho làng đã được đặt lại. Mặt trước của bia ”Bài ký bia đền thần cổ tích” cho biết: ”… Năm Thuận Thiên thứ 7 (1016), mùa xuân vua đi xem ngắm khắp các núi sông, bái phong ngài làm Đương cảnh Thành hoàng Chí minh Đại vương…”, Vào thời Lý Thái Tổ (1010-1028). Mặt sau bia ”Phụ chép về việc gia bang các đời”cho biết ”… Gia phong Đương cảnh Thành hoàng Chí minh Đại vương… Ngày 17 tháng 6 năm Hưng Long 20 (22/7/1312)”. Từ nội dung bia này, Giáo sư Hà Văn Tấn cho rằng: ”Thành hoàng làng không phải chỉ mới xuất hiện vào thời Lê, mà đã có từ sớm hơn, chắc chắn là từ thời Trần, nhưng cũng có thể là từ thời Lý… Thời Trần, có lẽ cả thời Lý, đã có việc vua phong Thành hoàng địa phương”13.

Vào năm thứ 3 (1804), vua Gia Long (1802-1820) đã ra một quyết định về việc phân loại các xã dân trong hạt ở Bắc thành ba hạng: hạng trên, hạng giữa và hạng dưới. “Ở Bắc thành, những bản danh sách các xã dân trong hạt trước đây phải có tên của nhân thần, công trạng rõ ràng, và danh thần ở các núi sông, cùng với sắc phong hiện tại, sẽ được xếp vào hạng trên. Nhân thần có tên, công trạng chưa rõ ràng, hoặc có tên quan tước nhưng sắc phong đã bị mất, sẽ được xếp vào hạng giữa. Còn những nhân thần có sắc phong tuy còn, nhưng sự tích không rõ ràng, sẽ được xếp vào hạng dưới. Những người còn sống và có những hành vi không đúng đắn và không đạo đức, những linh khí ma quỷ từ gỗ đá, và những loài côn trùng kỳ quái thuộc về sự bất chính, sẽ bị tước bỏ.”

Đình Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Nguồn: trang web tham hiểm sông Mekong.
Đình Bình Thủy, Cần Thơ. Nguồn: thamhiemmekong.com

Năm đầu tiên (1820) thời Minh Mạng (1820-1841) đã quy định rõ ràng: Thần hiệu ở hạng cao nhất được gọi là Thượng Đẳng Thần, ở hạng trung thì được gọi là Trung Đẳng Thần, ở hạng thấp thì được gọi là Chi Thần. Đến năm thứ 7 (1847) thời Thiệu Trị (1841-1847), vua đã chia Thành hoàng thành 3 hạng: Thành hoàng ở kinh đô được xem là hạng cao nhất, Thành hoàng ở các dân xã kinh đô được xem là hạng thấp nhất, còn Thành hoàng ở Thừa Thiên phủ và các tỉnh được xem là hạng trung đẳng. Năm thứ 3 (1850) thời Tự Đức (1847-1883), vua đã xác định rõ chỉ tiêu thần hiệu được áp dụng tại các địa phương và tặng mỹ tự cho 6 loại thần: Thiên thần, Thổ thần, Sơn thần, Thủy thần, Dương thần, Âm thần và chia thành ba hạng: Thượng đẳng, Trung đẳng, hạ đẳng. Tổng cộng có 18 mỹ tự được tặng cho các thần. Dưới triều đại Nguyễn, còn tồn tại các đình thờ thần cấp cho thôn, ấp, xã và một số loại thần được thờ trong các đình đến ngày nay như sau:

Thổ thần: Cấp cao, đẹp tự nhiên Hàm quang. Cấp thấp, đẹp tự nhiên Đôn ngưng thời Tự Đức, Dực bảo Trung hưng thời Duy Tân, Bảo Đại.

Ban cho làng Kiểng Phước, Dương Phước, Tân Duân Đông (Gò Công) (hiện nay thuộc tỉnh Tiền Giang), vào ngày 29/11 năm Tự Đức thứ 5 (8/1/1853), Sắc Bạch Mã thái giám hàng đầu đã tặng Dương uy Ngự vũ Bảo chưởng Kiện thuận Hòa nhu Hàm quang hàng đầu.

Ban cho thôn Thường Lạc huyện Đông Xuyên (hiện thuộc tỉnh Đồng Tháp), vào ngày 29 tháng 11 năm Tự Đức thứ 5 (8/1/1853). Sắc: Thần Thành hoàng bổn tình hình, ban đầu đã được phong là thần Quảng hậu Chính trực Hựu thiện…Thêm là thần Quảng hậu Chính trực Hựu thiện Đôn ngưng16.

– Thủy thần: Trung đẳng, mỹ tự Uông nhuận. Hạ đẳng, mỹ tự Trừng trạm.

Ban cho làng Thắng Tam (Vũng Tàu). Sắc: “Rồng nước tôn thần gia tặng Trứ linh Chương ưng Mục uyên Hoằng bác Uông nhuận trung đẳng thần…”17.

+ Cấp cho thôn Thắng Tam (Vũng Tàu), ngày 29/11 năm Tự Đức thứ 5 (8/1/1853).

Sắc: ”Nam Hải cự tộc Ngọc Lân tôn thần (cá voi) tặng cho Từ tế Linh chương Trợ tín Trừng trạm chi thần…”. Có thể bổ sung một số Thủy thần là vị thần biển như Nam hải đại vương, Bát hải đại vương…; Thần sông, hồ, đầm như Linh Lang, Tam Giang….

– Dương thần: Thượng đẳng, mỹ tự Trác vĩ. Trung đẳng, mỹ tự Quang ý. Hạ đẳng, mỹ tự Đoan túc.

Cấp cho thôn An Hội (Bến Tre). Cao Cấp gia tặng Hoằng mô Vĩ lược Đôn hậu Phù hựu Trạc dương Trác vĩ thượng đẳng thần.

Ban cho làng Vĩnh Tế thuộc tổng Châu Phú tỉnh Châu Đốc (nay thuộc tỉnh An Giang), vào ngày 25/7 năm thứ 9 của Khải Định (1924). Sắc phong ban cho làng Vĩnh Tế, tổng Châu Phú tỉnh Châu Đốc phục vụ theo lệnh Thống chế án thủ Châu Đốc … Làm quản Hà Tiên trấn, Trụ Quốc Đô, tráng Võ tướng Nguyễn Công Tôn (tên thật là Nguyễn Văn Thoại), giúp đất nước bảo vệ dân tộc đã lâu. Nay trong dịp kỷ niệm lễ Tứ tuần Đại khánh của Trẫm đã nhận được bản chiếu lễ Đàm Ân, phong tặng Đoan túc Dực bảo Trung hưng tôn thần18.

– Âm thần: Thượng đẳng, mỹ tự Trang huy.

Ban cho thôn Trường Thạnh huyện Kiến Hưng, vào ngày 29/11 năm Tự Đức thứ 5 (5/1/1853). “Sắc: Bốn vị thần được coi là làm mạnh mẽ Nam Hải của đất nước (sắc đại càn quốc gia Nam Hải tứ vị thần), ban đầu được trao tặng là Thượng đẳng thần Hàm hoằng Quang đại Chí đức Phổ bác Hiển hóa… Và sau đó tặng thêm là Thượng đẳng thần Hàm hoằng Quang đại Chí đức Phổ bác Hiển hóa Trang huy…”.

Ban cho làng Kiểng Phước, huyện Tân Hòa (Gò Công) (hiện nay thuộc tỉnh Tiền Giang), vào ngày 29/11 năm Tự Đức thứ 5 (8/1/1853). Sắc phong Thiên Y Ana Diễn Ngọc Phi đã được ban phong Hoằng huệ Phổ tế Linh cảm Diệu thông Mặc tưởng thượng đẳng thần…Thêm phong Hoằng huệ Phổ tế Linh cảm Diệu thông Mặc tưởng Trang huy thượng đẳng thần….

Có thể bạn quan tâm: ? Tín ngưỡng thờ Mẫu có từ bao giờ?

Qua một số sắc thần đã được đề cập, có thể nói, dưới triều Nguyễn ít nhất có 4 loại thần được thờ trong đình gồm: Thổ thần (Bạch Mã thái giám, Thành hoàng bổn cảnh…), Thủy thần (Thủy Long, Nam Hải cự tộc ngọc lân…), Dương Thần (Cao các, Nguyễn Văn Thoại…), Âm thần (Đại càn quốc gia Nam Hải Tứ vị Tôn thần, Thiên Y Ana Diễn Ngọc Phi…) Và đều có nhiệm vụ ”Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân” (thần thì phải giúp đỡ bảo vệ cho dân đen của ta). Trong 4 loại thần thì thần Thành hoàng bổn cảnh thờ ở đình chỉ là chi thần, thần hạ đẳng trong loại thổ thần và được phong mỹ tự ”Đôn ngưng”. Đình thờ thần của làng, ngoài Thành hoàng bổn cảnh loại thổ thần, còn có những đình thờ những loại thần khác: Thủy thần, Dương thần, Âm thần….

Tóm lại, tín ngưỡng thờ Thành hoàng đã tồn tại từ thời sớm ở Trung Quốc và có đền thờ riêng từ thời Tam Quốc. Tín ngưỡng này được nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc với Tô Lịch được tôn làm Thành hoàng vào năm 823. Thành hoàng được thờ ở làng chắc chắn đã tồn tại từ thời Trần. Trong thời Nguyễn, miếu thờ Thành hoàng đã được xây dựng ở kinh đô Huế vào năm 1809 và ở các tỉnh từ năm 1841. Việc thờ Thành hoàng dưới thời Nguyễn đã phát triển mạnh mẽ, tuân thủ luật lệ triều đình và trở thành một phần không thể thiếu trong tín ngưỡng của người Việt, với 6 loại thần (Thiên thần, Thổ thần, Sơn thần, Thủy thần, Dương thần, âm thần), được chia thành ba hạng (thượng đẳng, trung đẳng, hạ đẳng).

Trong ý thức của người Việt, Thành hoàng được coi là vị thần quan trọng nhất, có thể bảo vệ và phù hộ cho sự phát triển và thịnh vượng của cả làng. Việc thờ cúng Thành hoàng được coi là việc tôn kính và tuân thủ luật lệ của làng xã, cũng như truyền thống gia phong của làng. Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng còn giúp người dân nhớ về nguồn gốc và quê hương thông qua các hoạt động văn hoá truyền thống.

Chú thích:.

* Th.S Đào Ngọc Lam Phương – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG TP HCM).

1. Đại Việt sử ký toàn thư tập 4 (1968), phiên bản Viện Lịch sử, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.86.

2. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.23.

3. Hà Văn Tấn (2002), Chữ trên đá chữ trên đồng – Minh văn và lịch sử, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, tr.181.

4. Lý Tế Xuyên (1994), Việt Điện U Linh, Nxb Văn Học, tr.33-34.

5. Lý Tế Xuyên (1994), Việt Điện U Linh, Nxb Văn Học, tr.67-70.

6. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự (1998), Đình Việt Nam, Nxb TP HCM, tr.50.

7. Đại Việt Sử ký toàn thư, tập II (1998), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.371.

8. Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ, tập 6 (1997), Nxb Thuận Hóa, tr.507.

9. Minh Mệnh chính yếu, tập III (1974), phiên dịch bởi Lê Phục Thiện, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên phát hành, tr. 215-216.

9. Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ, tập 6 (1993), Nxb Thuận Hóa, tr.508.

10. Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định Thành Thông chí, tập hạ, Nha Văn hóa Phủ Quốc Vụ Khanh phụ trách văn hóa xuất bản, tr.86.

11. Vũ Ngọc Khánh (2002), Thành hoàng làng Việt Nam, Nxb Thanh Niên, tr.19-20.

12. Hà Văn Tấn (2002), Chữ trên đá chữ trên đồng – Minh văn và lịch sử, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, trang 177-185.

13. Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ, tập 8 (1993), Nxb Thuận Hóa, tr.153-154.

14. Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ, tập 8 (1993), Nxb Thuận Hóa, tr.187.

15. Huỳnh Ngọc Trảng – Trương Ngọc Tường (1999), Đình Nam Bộ xưa và nay, Nxb Đồng Nai, tr.110.

16. Cao Tự Thanh (1996), Lịch sử Đồng Tháp Mười (từ thế kỷ XVIII đến 1930), Nxb Chính trị Quốc gia, tr.267.

17. Huỳnh Ngọc Trảng – Trương Ngọc Tường (1999), Đình Nam Bộ xưa và nay, Nxb Đồng Nai, tr.282.


Posted

in

by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *