Theo Lời Phật tìm hiểu, Cộng đồng LGBT, viết tắt của những từ đồng tính nữ (Lesbian), đồng tính nam (Gay), song tính (Bisexual) và chuyển giới (Transgender), bao gồm những người bị thu hút bởi cả hai giới.
Làm sao để phân biệt được những người thuộc cộng đồng LGBT?
Đó là một dạng “bệnh” hay “tình”? Nếu đó là bệnh thực sự thì phải chữa trị và khắc phục như thế nào, còn nếu là tình thì phải làm gì? … Mọi người đều cần được trang bị kiến thức cơ bản để hiểu đúng và giúp cộng đồng LGBT+ hòa nhập vào xã hội.
Đến thời điểm hiện tại, không thể hoàn toàn giải thích hiện tượng đồng tính luyến ái bằng nguyên nhân sinh học hoặc tâm lý. Theo những nghiên cứu mới nhất, nhiều chuyên gia đã chứng minh rằng, vùng đồ thị trên não của những người thuộc giới thứ 3 có sự khác biệt so với những người thuộc giới tính nam hoặc nữ rõ ràng, cho thấy nguyên nhân sinh học cũng có tác động. Tuy nhiên, môi trường gia đình, sự chăm sóc và giáo dục từ bố mẹ và tương tác xã hội cũng là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến biểu hiện của đồng tính.
Các nhóm cộng đồng LGBTQ+
Đối tượng này có thể được phân loại đơn giản như sau: Nhóm đối tượng có biểu hiện bẩm sinh từ khi còn nhỏ; Nhóm đối tượng chuyển hướng vì tìm được đam mê thực sự; Nhóm đối tượng tự nguyện tham gia; Nhóm đối tượng đồng ý vì mục tiêu cá nhân vụ lợi. Điều này cần được quan tâm bởi vì mối quan hệ phức tạp này có thể gây ra nhiều nguy hiểm.
Làm sao để nhận biết giới tính?
Để kiểm tra ngoại hình, các bác sĩ sử dụng các phương pháp hình ảnh như siêu âm và thăm khám trực tiếp để tìm hiểu về đường sinh dục và tuyến sinh dục, nhằm xác định giới tính. Ngoài ra, các xét nghiệm di truyền học cũng được thực hiện, bao gồm khảo sát bộ nhiễm sắc thể của bệnh nhân với tiêu chuẩn 46XX với nữ và 46XY với nam, cùng với xét nghiệm để xác định nồng độ của các hormone nam và nữ như FSH, LH, oestradiol, progesteron, prolactin, testosteron.
Thực hiện cuộc trò chuyện với bệnh nhân để đánh giá tính cách, tâm lý xã hội, sở thích và thói quen của họ; đồng thời tìm hiểu mong ước về giới tính của người thân đối với bệnh nhân.
Người đồng tính có phải bị ảnh hưởng bởi một căn bệnh?
Đối với nhóm bệnh nhân có biểu hiện bẩm sinh từ nhỏ, có thể phân biệt được 2 giai đoạn mắc bệnh là giai đoạn thai nhi (tức là mắc bệnh khi còn ở trong tử cung) và giai đoạn mắc bệnh sau khi sinh. Thực tế trong thực hành lâm sàng, thường xuyên gặp phải trường hợp mắc bệnh ở giai đoạn thai nhi, tuy nhiên ít phát hiện được ở giai đoạn sau khi sinh.
Tình trạng nam hóa ở các bé gái chiếm tỷ lệ 60% các trường hợp mắc bệnh. Trường hợp đầu tiên là do tăng tiết androgen trước khi cơ quan sinh dục hoàn thiện, dẫn đến việc phát triển cơ quan sinh dục giả ái nam ái nữ. Các biểu hiện trên cơ thể bao gồm âm vật phì đại giống như dương vật, môi lớn hoặc môi bé to, âm đạo và tử cung không phát triển.
Trong trường hợp thứ hai, khi các cơ quan sinh dục và ống sinh dục đã bị biệt hóa, sự tăng tiết androgen ở bé gái khiến âm đạo phình to.
Trường hợp thứ ba, khi tăng tiết androgen sau khi sinh: ở trẻ sơ sinh nữ, cơ quan sinh dục phát triển bình thường, nhưng sau đó, cơ quan sinh dục bị biến đổi tùy thuộc vào tình trạng rối loạn chức năng vỏ thượng thận. Vì vậy, trên thực tế có thể xuất hiện các triệu chứng như: trẻ mọc lông sớm giống như đàn ông, âm đạo phình to, tử cung, tuyến vú không phát triển, rối loạn chu kỳ kinh nguyệt hoặc vô sinh.
Ở trẻ nam: Sau khi sinh, có thể xảy ra rối loạn phát triển sinh dục với các biểu hiện: phát triển sớm các triệu chứng sinh dục thứ phát, kích thước dương vật to, tuyến tiền liệt to, nhưng tinh hoàn không phát triển và không có hiện tượng tạo tinh trùng. Trẻ có thể có ham muốn sinh dục sớm, cường dương. Trong trường hợp bệnh xảy ra trong thời kỳ dậy thì, thường kèm theo tăng huyết áp.
Từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ 20, nhiều quốc gia đã chính thức loại bỏ đồng tính ra khỏi danh sách bệnh. Do đó, ta nên coi đây là một biểu hiện của xu hướng tình dục, không nên đánh giá là sự biến thái hay suy đồi đạo đức. Vì vậy, cộng đồng cần đồng cảm và chia sẻ để giúp người đồng tính hòa nhập vào xã hội.
Trả lời