Tìm hiểu đôi nét về Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam

Tổ đình Hưng Minh Tự, số 45 đường Lý Chiêu Hoàng, phường 10, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh là nơi đặt trụ sở chính của Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam.
Trụ sở chính Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam đặt tại Tổ đình Hưng Minh Tự, số 45 đường Lý Chiêu Hoàng, phường 10,quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Lời Phật tìm hiểu, Tổ chức tôn giáo Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam là một tổ chức độc lập hoạt động và không thuộc sự quản lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam được quản lý theo hệ thống từ trung ương đến các chi hội tại 21 tỉnh/thành phố từ Khánh Hòa đến Cà Mau, với 4 cấp quản lý bao gồm Ban Trị sự trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Ông Chánh Hội trưởng đứng đầu Ban Trị sự Trung ương và ông Hội trưởng đứng đầu các Ban Trị sự Tỉnh hội. Trưởng ban Y tế phước thiện là người đứng đầu các ban cấp quận, huyện hội.

Tìm hiểu đôi nét về Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam

Tìm hiểu đôi nét về Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam

Văn phòng chính nằm tại Tổ đình Hưng Minh Tự, số 45 đường Lý Chiêu Hoàng, phường 10, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.

Tìm hiểu thêm: Lý do tại sao Phật giáo phát triển mạnh ở Việt Nam

Buổi lễ tất niên năm 2018 của các Hội trưởng và thành viên thuộc Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam đã được tổ chức tại Tổ đình Hưng Minh Tự (Quận 6), như một sự kiện được chia sẻ trên trang Facebook của tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam.

Cơ sở thờ tự của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam được gọi là hội quán, hiện tại giáo hội có 206 hội quán, mỗi hội quán đều có một phòng thuốc Nam phước thiện. Trong hội quán, những cư sĩ hội viên làm công tác lãnh đạo được gọi là chức vụ, chức danh. Có sáu loại chức danh hội viên: hội viên sáng lập, hội viên danh dự, hội viên phước thiện, hội viên tán trợ, hội viên hành sự, hội viên huấn luyện. Tín đồ được xem là những người theo đạo và tuân thủ quy tắc.

Đức Tông Sư Minh Trí, người sáng lập và đồng thời là giáo chủ của Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam, có tên thật là Nguyễn Văn Bồng và sinh năm Bính Tuất (1886) tại xã Tân Mỹ, tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc. Ông là con thứ bảy của ông Nguyễn Văn Bình và bà Nguyễn Thị An.

Vào đầu năm 1934, ông thành lập Tịnh độ Cư sĩ Phật hội và được cấp phép vào ngày 20-2-1934, khi đó tên chính thức của tổ chức là Tịnh độ Cư sĩ Phật hội.

Vào ngày 22 tháng 12 năm 1953, chính phủ Quốc gia Việt Nam đã công nhận tính hợp pháp của Giáo hội với Nghị định số 83/MI/DAP và đặt tên chính thức là Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam như hiện nay.

Ban Dân chủ Thành ủy TP.HCM đến chúc tết Liên minh hội (Ảnh: trang Facebook Tịnh độ Phật tử hội Việt Nam)
Ban Dân vận Thành ủy TP.HCM đến chúc tết Trưng ương hội (Ảnh: website Facebook Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam)

Vào tháng 9 năm 2006, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đã được chính quyền cho phép hoạt động với mục đích tôn giáo.

Năm 2007, Nhà nước trao Quyết định Công nhận với QĐ số 207/QĐ-TGCP ngày 27-11-2007.


Posted

in

by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *