Theo Lời Phật tim hiểu, Quan Hoàng Bát là thánh hoàng thứ tám trong danh sách Thập Vị Thánh Hoàng của tín đồ thờ Tứ Phủ Việt Nam.
Ông là vị thánh hoàng thứ tám trong hàng Thập Vị Thánh Hoàng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Trong danh sách Thập Vị Ông Hoàng của tín đồ thờ Tứ phủ, Quan Hoàng Bát đứng thứ tám, đứng sau Quan Hoàng Bảy và trước Quan Hoàng Chín.
Người hùng Nùng Chí Cao ở đất Cao Bằng được xem như là hình tượng của Quan Hoàng Bát. Ông là một nhân vật anh dũng được cư dân địa phương, đặc biệt là người Tày Nùng, tôn sùng vì đã đuổi đánh quân Tống để bảo vệ biên giới và mang lại sự an bình cho người dân.
Truyền thuyết về Quan Hoàng Bát Nùng Chí Cao
Thánh ông Hoàng Tám là một nhân vật lịch sử thực sự, là một vị tướng tài, anh hùng dân tộc của người Tày – Nùng ở miền đất Cao Bằng thượng cổ. Quan Hoàng Bát Nùng, tên khai sinh là Nùng Chí Cao, được sinh ra vào khoảng thế kỷ XI trong thời kỳ của vua Lý Thái Tông. Ông là con trai của thủ lĩnh Nùng Tôn Phúc và bà A Nùng. Vào năm Tân Tỵ, vua Lý Thái Tông đã cử một tướng ẩn danh lên để thuyết phục Nùng Trí Cao không ủng hộ nhà Tống. Sau đó, ông được người Tày ở vùng đất Quảng Nguyên, hay Cao Bằng ngày nay, tôn sùng làm thủ lĩnh. Sau đó, nhà Lý đã phong ông làm Thái Bảo tướng quân và giao trọng trách trấn giữ, bảo vệ bình an cho vùng đất biên cương Cao Bằng.
Trong thời gian tham gia chiến đấu, vị tướng này đã đạt được nhiều thành tích đáng kính, dẫn dắt quân và dân ở Quảng Nguyên chống lại những cuộc tấn công lớn của quân giặc Tống.
Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần 2 của quân và dân Đại Việt, lãnh đạo Nùng Trí Cao đã phối hợp tốt với quân đội triều đình cúng tấn công đánh phủ đầu kho lương thảo của kẻ thù ở Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu thuộc đất lưỡng Quảng, sau đó rút về chỉ huy quân và dân Cao Bằng xây phòng tuyến chống giặc ngoại xâm. Khi giặc Tống xâm phạm bờ cõi Đại Việt vào năm 1075, Ông Hoàng Bát Nùng đã dũng cảm lãnh đạo quân dân địa phương chiến đầu ngăn bước tiến của địch, tạo thêm thời gian cho quân đội triều đình xây dựng phòng tuyến trên sông Như Nguyệt. Ông đã bị thương nặng nhiều lần nhưng vẫn đạt được nhiều chiến công vang dội, đóng góp không nhỏ cùng quân và dân Đại Việt để giành chiến thắng hiển hách vào mùa xuân năm 1077.
Để tri ân công đức vĩ đại của ông, sau khi ông qua đời, cư dân địa phương đã xây dựng đền thờ và tôn kính ông là Quan Hoàng Bát.
Thánh Hoàng Tám được biết đến như là Ông Hoàng Bát Nùng.
Khi nhắc đến Ông Hoàng Bát Nùng, nhiều người thường nhầm lẫn với Ông Hoàng Bắc Quốc vì cả hai đều được gọi là Quan Hoàng Bát và đều là những tướng tài xuất sắc trong lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, ông Hoàng Bắc Quốc là người đến từ Kinh Bắc và không có bất kỳ mối liên hệ nào với ông Hoàng Bát Nùng. Chỉ có ông Hoàng Bát Nùng mới được coi là Thánh ông Hoàng Tám trong Tứ Phủ ông Hoàng.
Đền ông Hoàng Bắc Quốc nằm ở Bắc Giang, tuy nhiên cách xa đền ông Hoàng Bát Nùng đến hàng trăm cây số. Vì vậy, khi đi lễ đền ông Hoàng Bát, du khách cần phân biệt rõ hai quan vị Hoàng này.
Tôn trọng vị trí của Quan Hoàng Bát Nùng.
Quan Hoàng Bát Nùng là một trong số các vị quan hoàng hiếm khi trở về ngự đồng. Chỉ những người có căn lục bộ mới được phục vụ Ngài. Khi trở về ngự đồng, Ngài thường mặc trang phục màu vàng, đeo khăn mỏ rìu, áo trấn thủ, đi chập chững, mang mạng chéo, thực hiện các nghi thức tấu hương, khai quang, múa đôi trùy đồng (múa cờ, kiếm) và múa võ.
Khi ngự đồng ông Hoàng Tám hút tẩu và thuốc cuốn.
Đền thờ Quan Hoàng Bát Nùng Chí Cao là một ngôi đền được xây dựng để tôn vinh vị vua Quan Hoàng và những người anh hùng đất Việt như Bát Nùng và Chí Cao.
Nùng Chí Cao là một biểu tượng can đảm của Việt Nam và là niềm tự hào của người dân ở Cao Bằng. Đền thờ chính Quan Hoàng Bát là đền Kỳ Sầm gần thành phố Cao Bằng. Thánh Ông Hoàng Tám là một quan hầu của Mẫu thượng, có trách nhiệm quản lý nội chính.
Bữa tiệc Quan Hoàng Bát
Chính tiệc ông Hoàng Tám là ngày mùng 10 tháng Giêng âm lịch hàng năm.
Tác phẩm Quan Hoàng Bát
Gương anh dũng ngàn xưa lưu để.
Đất Cao Bằng tú khí chung linh.
Trời nam có đức thánh linh.
Họ Nùng đệ bát hùng anh tuyệt vời.
Giận bạo chúa bao đời áp bức.
Thù ngoại xâm Tống giặc cường hung.
Thề rằng không độ trời chung,.
Tuốt gươm quét sạch thù trong giặc ngoài.
Dù trăm trận mưa rơi sấm giật.
Đôi trượng đồng dạy đất trời long.
Bát Nùng nối nghiệp gia phong.
Noi gương tiên tổ – họ Nùng – Trí Cao.
Ông Bát Nùng ra vào sinh tử.
Trượng tung bay tuyết phủ hoa khai.
Sá gì đạn lạc tên rơi.
Trên đời hồ dễ mấy ai anh hào.
Thân bách chiến ra vào sinh tử.
Đôi thần trùy nhẹ tựa hồng mao.
Trần hoàn nhẹ gánh gian lao.
Cõi trời do sổ Thiên Tào có tên.
Rước ông Bát về miền tiên giới.
Đất Cao Bằng nhớ lại công ơn.
Nhân dân thờ phụng khói hương.
Nhớ người tráng sĩ hiên ngang anh hùng.
Thuở niên thiếu kiếm cung yên ngựa.
Sinh vì đời, thác trợ muôn dân.
Oai linh lẫm liệt thánh thần.
Một lòng vì nước vì dân vì đời.
Gương anh khí sáng ngời muôn thuở.
Trí hào hùng rạng rỡ non sông.
Vinh quang thay giòng giống Lạc Hồng.
Ngàn thu còn nhớ ông Bát Nùng Trí Cao.
Thơ Lý Bạch anh hào ví sánh.
Rượu Lưu Linh buồn tính vui say.
Thừa nhàn bạch định thiên khai.
Cờ thiên đế thích mộ tài tri âm.
Kèn sáo trúc bổng trầm họ Lá.
Lục huyền cầm Tử Bá nam xuân.
Liên tâm ba chén tẩy trần.
Thanh hương bình ngọc kỳ trân đượm mùi.
Hồn quốc túy ấm lòng quân tử.
Thú yên hà duyên nợ núi sông.
Ngàn xưa tuyết nguyệt hoa phong.
Thuốc lào Tiên Lãng ấm lòng thế gian.
Khói thoảng ngát hương lan thú thảo.
Thú phong lưu Vĩnh Bảo – Hải Đông.
Sập vàng điếu ống thung dung.
Ngự về trần thế đèn lồng kiệu hoa.
Ai thành kính tại gia phụng sự.
Thỉnh Ông về giá ngự đền trung.
Xưa nay tắc tự hữu công.
Dâng văn kính thỉnh Ông Bát Nùng Trí Cao.
Có thể bạn quan tâm: Thành viên của Ban Tam Bảo trong chùa là ai?
Trả lời