Thánh lễ Mình và Máu Chúa Kitô

Ý Nghĩa Và Lịch Sử Của Đại Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa.

Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô

Theo Lời Phật tìm hiểu, Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa là một sự kiện quan trọng trong Năm Phụng Vụ của Giáo hội Công Giáo, nhằm thể hiện niềm tin vào sự hiện diện sống động của Chúa Giê-su Ki-tô trong Bí Tích Thánh Thể. Tên gọi của sự kiện này trong tiếng La-tinh là Sollemnitas Sanctissimi Corporis et Sanguinis Christi[1].

Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa được tổ chức vào ngày thứ Năm sau Chúa Nhật Kính Chúa Ba Ngôi, tức 60 ngày sau Lễ Phục Sinh, tại Viện Hải dương học Nha Trang. Ngày thứ Năm được chọn làm ngày cố định để tổ chức lễ vì có mối liên kết với ngày thứ Năm Tuần Thánh, là ngày Chúa Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Tuy nhiên, vì Tuần Thánh là thời gian tĩnh lặng, không thích hợp để tổ chức lễ, nên Đại Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa được dời sang ngày Chúa Nhật sau đó. Tại Việt Nam và nhiều quốc gia Công giáo khác, lễ này cũng không được tổ chức đúng vào ngày thứ Năm như tại Vatican, mà được dời sang ngày Chúa Nhật để phục vụ mục đích tốt hơn.

Phần quan trọng nhất của Đại Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa là Thánh Lễ. Các bản văn Phụng Vụ của Thánh Lễ này đều liên quan đến việc tôn vinh Thánh Thể. Tại nhiều địa điểm, ví dụ như ở Rô-ma, Thánh Lễ thường được tổ chức ngoài trời, đặc biệt là tại một quảng trường công cộng.

Theo truyền thống, một cuộc Rước Kiệu Thánh Thể hay còn được gọi là cuộc Cung Nghinh Thánh Thể, sẽ được tiến hành ngay sau Thánh Lễ nêu trên. Trong cuộc Rước Kiệu này, các tín hữu sẽ xếp hàng, vừa đi vừa cầu nguyện hoặc hát Thánh Ca, để Rước Kiệu Thánh Thể trên các con đường của thành phố hay của Giáo xứ, từ nơi vừa cử hành Thánh Lễ đến một địa điểm khác đã được xác định, và thường là một Ngôi Thánh Đường hay một Tu Viện. Đích thân vị chủ tế của Thánh Lễ vừa nêu, hay cũng có thể là một Linh mục đồng tế, hoặc một Phó tế, sẽ mang Mặt Nhật với Mình Thánh Chúa trên tay, và đi cuối cùng đoàn Rước Kiệu. Cuộc Rước Kiệu Thánh Thể sẽ có ít nhất là một trạm hay nhiều nhất là 4 trạm bên ngoài trời; mỗi trạm đều có một bàn thờ được trang hoàng sẵn. Khi tới mỗi trạm, người mang Mặt Nhật sẽ đặt Mặt Nhật lên bàn thờ tại đó. Và trong lúc vị chủ sự xông hương trước Thánh Thể trong Mặt Nhật, thì Ca Đoàn hát một bài Thánh Ca. Sau bài Thánh Ca, một đoạn Tin Mừng sẽ được đọc to cho mọi người nghe. Sau đó là những lời nguyện do đích thân vị chủ sự đọc. Đọc xong lời nguyện trên, vị chủ sự sẽ ban Phép Lành Thánh Thể theo mọi hướng mặt trời và trên thành phố hay trên Giáo xứ. Sau Phép Lành này, đoàn Rước Kiệu lại tiếp tục đi tới trạm khác. Cuộc Rước Kiệu sẽ kết thúc tại một nguyện đường của một Tu Viện hay tại Thánh Đường của một Giáo xứ khác, hoặc cũng có thể là tại Thánh Đường của chính Giáo xứ mình, với Kinh Tantum ergo trước khi vị chủ sự ban Phép Lành cuối cùng, và Kinh Te Deum sau khi Phép Lành được ban.

Ở một số khu vực ven biển, nơi mà cư dân sinh sống phân tán trên các đảo nhỏ gần nhau hoặc xung quanh những hồ lớn, các lễ hội Cung Nghinh Thánh Thể được tổ chức bằng tàu hoặc thuyền, ví dụ như ở khu vực Traunsee hoặc Hallstätter See ở Châu Âu.

Theo truyền thống, ý nghĩa của lễ Cung Nghinh Thánh Thể bắt nguồn từ hình ảnh của cuộc hành trình của Chúa Giê-su. Giê-su, được gọi là “Bánh Sự Sống”, xuất hiện giữa cuộc hành trình này. Tuy nhiên, việc kết hợp lễ Cung Nghinh với Thánh Lễ được tôn trọng nhiều hơn.

Lịch sử của Đại Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa.

Lễ hội này đã được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1246 tại Giáo phận Lüttich, hay còn được biết đến với tên gọi là Giáo phận Liège, nằm ở khu vực miền Bắc của Bỉ. Vào năm 1264, Đức Thánh Cha Urban IV đã ra lệnh tổ chức Lễ hội này trên toàn Giáo hội sau khi xảy ra Phép Lạ Máu Thánh tại Bolsena vào năm 1263. Vào thời điểm đó, một linh mục tại Prag (Tiệp Khắc) có tên là Peter đã nghi ngờ về sự hiện diện thực sự của Chúa Giê-su trong Bí Tích Thánh Thể. Trong khi dâng Lễ và sau khi đọc lời Truyền Phép, vị linh mục này đã cầm lấy Mình Thánh và bẻ ra để chia sẻ cho các tín hữu. Khi Mình Thánh bị bẻ ra như vậy, vị linh mục này đã thấy những giọt máu rơi ra từ Mình Thánh. Sự kiện này đã được công nhận là một phép lạ thực sự vào năm 1263. Đức Thánh Cha Urban IV đã viết trong bức Tông Sắc của mình rằng: “Để củng cố và nâng cao đức tin chân thật, Ta truyền lệnh rằng, ngoài những cuộc tưởng niệm hằng ngày mà Giáo hội thể hiện đối với Bí Tích rất thánh này, mỗi năm sẽ có một Lễ hội đặc biệt được tổ chức vào một ngày nhất định, và cụ thể là vào ngày thứ Năm sau tuần Bát Nhật kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong ngày đó, cộng đồng Kitô hữu sẽ tập trung tại các nhà thờ và thể hiện niềm vui thánh thiện bằng các bài Thánh ca được trình bày bởi các giáo sĩ và giáo dân.” [3].

Tuy nhiên, nguyên nhân đầu tiên gây ra việc thành lập Đại Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa chính là cuộc thị kiến của Thánh Nữ Juliana tại Lüttich (khoảng năm 1192 đến ngày 5 tháng 4 năm 1258). Thánh Nữ là một Nữ Đan Sĩ thuộc Dòng Thánh Au-gút-ti-nô. Thánh Nữ cho biết rằng trong một cuộc thị kiến vào năm 1209, bà đã nhìn thấy mặt trăng bị đốm. Chúa Ki-tô giải thích cho Thánh Nữ biết rằng, mặt trăng tượng trưng cho Năm Phụng Vụ của Giáo hội, đốm đen trên mặt trăng là sự biểu thị cho biết rằng, trong Năm Phụng Vụ vẫn còn thiếu một Đại Lễ, đó là Đại Lễ Kính Bí Tích Bàn Thánh. Sau khi Thánh Nữ Juliana báo cáo, Đức Cha Robert I của Giáo Phận Lüttich đã thiết lập Đại Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa cho riêng Giáo Phận của mình, và Đại Lễ này được cử hành lần đầu tiên tại đó vào năm 1246. Dưới thời Đức Urban IV, Đại Lễ này đã được cử hành trên toàn Giáo hội. Đại Lễ này được Đức Urban IV thiết lập với Tông Sắc “Transiturus de hoc mundo”, là Đại Lễ đầu tiên được điền vào trong Lịch Phụng Vụ của toàn Giáo hội bởi một Đức Giáo Hoàng.

Trước đó, vào năm 1215, Công Đồng Lateran IV đã định nghĩa rõ ràng về sự thay đổi bản chất của Bí Tích Thánh Thể với học thuyết Transsubstantiatio (Biến đổi bản thể), và đưa học thuyết này lên thành tín điều. Giáo hội Công Giáo giảng rằng, trong Thánh Lễ, bánh và rượu, nhờ sự thay đổi bản chất, sẽ thực sự trở thành Mình và Máu Chúa Ki-tô, và Chúa Ki-tô hiện diện và lưu lại trong bánh và rượu đó.

Sau khi Đại Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa được thiết lập, Thánh Thomas Aquin đã viết một bản Lễ đặc biệt cho các giờ Kinh Phụng Vụ và Thánh Lễ trong ngày lễ này. Ngoài Thánh Thomas, nhiều tác giả khác cũng đã sáng tác những bản Thánh Ca cho Đại Lễ này. Trong số đó, các bài Thánh Ca như Panis angelicus, Pange lingua, Adoro te devote, Verbum supernum prodiens và Lauda Sion đã tôn vinh đặc trưng quan trọng nhất của ngày Đại Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa.

Trong thời kỳ cải cách, nhóm Thệ Phản đã phản đối việc tổ chức Đại Lễ tôn vinh Mình và Máu Thánh Chúa, vì họ cho rằng, lễ này không có cơ sở trong Kinh Thánh[6].

Tìm hiểu: Tổng kết ngắn về đạo Công Giáo

Tuy nhiên, Công Đồng Tren-tô (1545 -1563) đã xác nhận Đại Lễ này và đồng thời, nâng cao giá trị của nó để chống lại phong trào cải cách. Công Đồng đã tuyên bố rằng: “Đại Lễ là một nghi lễ tuyệt vời, chân thật và có tính xây dựng cho đời sống tôn giáo;… Bí Tích trên cao này sẽ được tôn trọng trên các con đường và tại các quảng trường công cộng trong suốt các năm.” [7].

Trong thời kỳ phong trào Ánh Sáng, các hoạt động tôn giáo như cung nghinh Thánh Thể đã bị chỉ trích và bị cấm ở nhiều địa điểm tại châu Âu.

Trong thời kỳ Đức Quốc xã, nhiều người tại châu Âu đã xem các buổi cung nghinh Thánh Thể như là một cách thể hiện Đức Tin của họ để chống lại quan niệm của chủ nghĩa Đức Quốc Xã và chống lại chế độ độc tài này [9][10].

Vào năm 1959, Thánh Bộ Lễ Nghi của Tòa Thánh Vatican đã thông báo rằng: các cuộc Cung Nghinh Thánh Thể không thuộc Phụng Vụ, nhưng chỉ là một trong những hình thức thể hiện đức tin trong tầm quyền của các Đức Giám Mục.

[1] Xc: CALENDARIUM ROMANUM GENERALE;.

[2] Hướng dẫn thực hiện nghi lễ Phụng Vụ; Quy định chung về sự hợp tác giữa Linh mục, Phó tế và Cộng đồng giáo dân trong lĩnh vực Phụng Vụ; Văn kiện của Hội đồng Giám mục Đức ngày 08.01.1999. Lần thứ 7. Bonn 2007.

[3] ĐTC Urban IV.: Tông Sắc thành lập Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa vào ngày 11.08.1264. Phiên bản dịch của Georg Ott. Xuất bản trong tác phẩm của Georg Ott: Eucharisticum. Pustet, Regensburg 1869;.

[4] Raymonde Foreville: Lateran I-IV. (Lịch sử các Công Đồng chung, cuốn 6). NXB Matthias-Grünewald, Mainz 1970;.

[5] Chứng chỉ phát hành cho bản Panis angelicus của Thánh Thy; Phiên bản dịch mới của bài hát Pange lingua của Thánh Thy được thực hiện bởi Liborius Lumma; Tantum Ergo của Déodat de Séverac (1920);.

[6] Martin Luther đã viết chú thích cho chương VI của Tin Mừng theo Thánh Gio-an vào năm 1530, được chọn lọc các bài giảng của Giáo hội năm 1521 và cũng đã đọc các diễn văn trong các buổi tiệc.

[7] Hans Grassl và Alfons Beckenbauer đã viết về Đại Lễ Kính Chúa. Bài viết được xuất bản trong cuốn Bayern im Rokoko, được biên tập bởi Herbert Schindler. Cuốn sách được xuất bản tại NXB Nam Đức, München năm 1989, có số ISBN là 3-7991-6434-0 và trang 142.

[8] Josef Pfennigmann: Phong cách đạo đức thông thường và giấy tờ tại Altbayern. Trong: Herbert Schindler (chủ biên): Bayern trong thời kỳ Rokoko. Nhà xuất bản Nam Đức, München 1989, ISBN 3-7991-6434-0, tr. 132.

[9] Hans Michael Ehl, Willi Keller, Martin Koch, Jörg Vins: Nghỉ lễ hay ngày nghỉ? Lễ Ngũ Tuần, Lễ Kính Máu Thánh Chúa và chim bồ câu; khi những biểu tượng nổi tiếng trở thành những điều bí ẩn; SWRcont.Ra, 21. Tháng Năm 2010, 11.

[10] Bernd Distelkamp: Siegburger Blätter, Nr. 21, Februar 2009; bes. S. 7.(Pdf, 418 kB).

[11] History-st-benedikt.Herbern.De/Prozessionen.Pdf.

Lm Đa-minh Thiệu O.Cist – (tổng hợp và biên dịch).


Posted

in

by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *