Tại sao đạo Cao Đài lớn mạnh tại miền Nam?

Nhà nghiên cứu Lê Anh Dũng trích dẫn tài liệu của Jayne Susan Werner, được tham khảo từ một báo cáo gửi cho Toàn quyền Đông Dương vào ngày 14/12/1934, cho thấy đạo Cao Đài đã có từ 500.000 đến 1 triệu tín đồ vào năm 1930, khi tổng dân số Nam Kỳ khoảng 4,5 triệu người.

Bên cạnh tính cởi mở và sự chấp nhận đa dạng tôn giáo ở vùng đất mới khẩn hoang Nam Kỳ, việc các quan chức tham gia vào đạo Cao Đài cũng gây ra phản ứng khác nhau của cộng đồng.

Theo nhà nghiên cứu Sơn Nam, người dân Nam Bộ thường có tính cách nhút nhát, vì vậy để đẩy mạnh các hoạt động vận động đông người, cần phải có sự tham gia của các công chức. Bởi vì người dân tin rằng công chức luôn đứng đắn, không tham gia vào các hoạt động chính trị.

Nghiên cứu viên Jayne S. Werner cho rằng trong thời kỳ Pháp chiếm Nam Kỳ, Đạo Phật và Khổng đã bị suy thoái, tạo cơ hội cho việc ra đời các giáo thuyết mới nhằm phục hồi văn hóa Việt Nam.

Werner ghi lại rằng việc ra đời của đạo Cao Đài đã mang lại sự sống lại cho đạo Phật, Lão và các tông Minh [Minh Sư, Minh Đường…], Thu hút được một số người theo đạo từ các tôn giáo này chuyển sang Cao Đài. Ông cũng ghi nhận rằng trước khi các tòa thánh của Cao Đài được xây dựng, tín đồ đã thực hiện lễ tại các chùa Phật trên toàn miền Nam.

Đền thờ Cao Đài tại miền Nam.
Nhà thờ đạo Cao Đài ở Nam Kỳ

Theo nhà nghiên cứu Lê Anh Dũng, đạo Cao Đài được thuận lợi phát triển về mặt luật pháp vào những ngày đầu, một phần là do áp dụng một số luật của nước Pháp tại Nam Kỳ. Vì Nam Kỳ là một thuộc địa của Pháp, nên nó đã phải tuân thủ luật pháp của nước Pháp. Năm 1883, Pháp đã áp dụng bộ Hình luật và một số điều khoản của bộ Dân luật tại Nam Kỳ.

Hoạt động tôn giáo luôn yêu cầu sự tập trung của nhiều người, thậm chí có thể lên đến hàng vạn người, dẫn đến việc quyền tự do hội họp là một phần không thể thiếu trong các nghi lễ của các tôn giáo. Tuy nhiên, ở Nam Kỳ, luật pháp áp dụng có nhiều thuận lợi về quyền tự do hội họp.

Có thể bạn quan tâm: Ngô Văn Chiêu – Tiểu sử người sáng lập đạo Cao Đài

Theo Lời Phật tìm hiểu Luật Hiệp hội ban hành ngày 1/7/1901, “các tổ chức có thể tự do thành lập mà không cần phải xin phép hay báo cáo trước”, tuy nhiên chỉ có thể có hiệu lực pháp lý sau khi thông báo chi tiết về tổ chức và cập nhật những thay đổi của tổ chức (nếu có) trong mỗi ba tháng với cơ quan chính quyền.

Thực tế, thông báo thành lập đạo Cao Đài do ông Lê Văn Trung gửi cho Quyền thống đốc Nam Kỳ đã thể hiện điều này. Phong cách viết trong thông báo không có bất kỳ dấu hiệu nào của sự xin lỗi mà thay vào đó là một giọng văn cực kỳ quyết liệt.

“Đại diện cho đông đảo người Việt Nam hoàn toàn đồng ý với các nghiên cứu này [về nguyên nhân thành lập và sứ mệnh của đạo Cao Đài] và có danh sách được kèm theo, những người đã ký tên dưới đây tự hào tuyên bố rằng chúng tôi sẽ truyền bá giáo lý thiêng liêng này cho tất cả mọi người trên thế giới.”

Được tin rằng tôn giáo mới này sẽ mang đến sự hòa bình và hòa hợp cho tất cả chúng ta, những người ký tên dưới đây yêu cầu ông chính thức tiếp nhận tuyên ngôn của chúng tôi. Đây là thông báo gửi đến chính quyền thuộc địa Nam Kỳ về việc thành lập đạo Cao Đài.

Sau thông báo đó, giáo phái Cao Đài tổ chức một sự kiện kéo dài suốt ba tháng để giới thiệu các vị trí quan trọng đầu tiên của Hội thánh Cao Đài và thu hút đông đảo tín đồ từ mọi miền đất nước.


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *