Bồ tát Phổ Hiền là ai? Ông đóng vai trò quan trọng trong đạo Phật. Bài viết này của Lời Phật sẽ giới thiệu về bồ tát này đến bạn đọc.
Bồ tát Phổ Hiền là ai?
Theo Lời Phật tìm hiểu, Ngài được coi là một trong tứ đại Bồ tát của đạo Phật (tứ đại Bồ tát bao gồm Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Địa Tạng và Bồ tát Phổ Hiền). Ngài cùng với Bồ tát Văn Thù là những vị thị giả của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bồ tát Văn Thù ngự trên con sư tử đứng ở bên trái và Bồ tát Phổ Hiền ngự trên con voi trắng đứng ở bên phải.
Nếu Bồ tát Văn Thù tượng trưng cho trí tuệ và chứng minh, thì Bồ tát Phổ Hiền tượng trưng cho lý trí, định kiến và hạnh nguyện của chư Phật.

Quý vị cũng giải thích về sự hoàn thiện của trí tuệ, tinh tấn và giác ngộ của Đức Phật. Cả ba vị được gọi là Tam Thánh của Hoa Nghiêm, bao gồm Phật Tỳ Lô Giá Na. Mật Tông tôn kính Bồ tát Phổ Hiền với các danh hiệu Thiện Nhiếp Kim Cương, Chân Như Kim Cương và Như Ý Kim Cương. Ngài còn được coi là tương đồng với Kim Cương Tát Đỏa.
Trước khi Đức Phổ Hiền trở thành một phật tử, Ngài là con thứ tư của vua Vô Tránh Niệm, với tên gọi là Năng-đà-nô. Danh hiệu Phổ Hiền được lần đầu tiên đề cập trong kinh Mạn Ðà La Bồ Tát, và sau đó xuất hiện trong nhiều kinh khác như kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, trở thành rất phổ biến.
Phổ Hiền Bồ Tát đại diện cho Lý, Ðịnh, Hành; cưỡi con voi trắng 6 ngà, bên cạnh tay phải của Đức Thế Tôn. Con voi trắng tượng trưng cho trí tuệ vượt qua các trở ngại, 6 ngà tượng trưng cho sáu căn (6 giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) được chiến thắng.
Trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, bài 28 – Khuyến Phát của Bồ Tát Phổ Hiền – ngài đã thề với Phật rằng sau 500 năm, nếu ai đó đọc Kinh Pháp Hoa thì ngài sẽ cưỡi chiếc voi trắng đến hộ trì và không để ma, quỷ gây hại đến.
Ngài chỉ dạy rằng nếu ai nghe danh ngài, chạm vào ngài, mơ thấy ngài hoặc nghĩ về ngài trong bất kỳ thời gian nào thì sẽ không còn phải trải qua sự chuyển động đau khổ. Bất kỳ ai nghe thấy sự thanh tịnh trong thân của ngài cũng sẽ được sinh ra trong một thân thanh tịnh.
Ở Việt Nam, hàng năm người theo đạo Phật tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh và ngày giác ngộ của Đức Phật vào ngày 21 tháng hai và 23 tháng tư âm lịch.
Sự tích Bồ tát Phổ Hiền
Trước khi trở thành một đại đức xuất gia, đức Phổ Hiền từng là con thứ tư của vua Vô Tránh Niệm, với tên gọi là Năng-đà-nô. Nhờ lời khuyên của phụ vương, Thái Tử đã quyết định cúng dường Phật Bảo Tạng và chúng sanh trong 3 tháng. Lúc đó, quan đại thần Bảo Hải đã thấy điều này và khuyên rằng: “Điện Hạ nên hướng về đạo Vô Thượng Bồ Đề để cầu được thành Phật, thay vì cầu sự phước báu không chắc chắn ở cõi Nhơn Thiên, vì cõi đó vẫn còn trong vòng xoay sinh tử”.
Thái tử Năng-đà-nô được quan đại thần khuyên bảo như vậy, liền nói với Phật Bảo Tạng rằng: “Phật Đức Thế Tôn! Tôi muốn cúng dường Ngài và đại chúng trong 3 tháng để giáo hóa mọi loài chúng sanh trở thành Phật đạo. Tôi nguyện phát tâm Bồ Đề và tu hạnh Bồ Tát để đạt được đạo Vô Thượng Chánh Giác. Tôi cũng nguyện được sống trong cõi Phật thanh tịnh và trang nghiêm, giống như thế giới của Đức Phổ Hiền Như Lai vậy, để giáo hóa chúng sanh với những sự tốt đẹp nhất”.
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe Năng-đà-nô thái tử phát nguyện như thế liền ghi chép rằng: “Ôi thật là tốt đẹp! Ông phát thệ nguyện rộng lớn, muốn giúp độ tất cả chúng sanh trở thành Phật đạo. Trong khi tu hành đạo Bồ Tát, sử dụng trí tuệ kim cang để phá tan các phiền não của tất cả các loài chúng sanh, vì vậy tôi gọi ông là Kim Cang Trí Huệ Quang Minh Công Đức, thực hiện những công việc Phật sự rất lớn suốt cả đời, rồi trở thành Phật trong thế giới Bất Huyền ở phương Đông, và được gọi là Phổ Hiền Như Lai. Những điều tốt đẹp, trang nghiêm mà ông đã cầu nguyện, sẽ được thực hiện đầy đủ và theo ý muốn”.
Sau khi Đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký, có nhiều Thiên Tử xuất hiện từ không gian và đem đến những loại hoa thơm đẹp để cúng dường và ca tụng.
Tìm hiểu thêm: Quan Thế Âm Bồ Tát là ai? Tóm tắt cuộc đời của ngài
Thái tử Năng-đà-nô nói với Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu những mong muốn của tôi sau này thực sự được Ngài chấp nhận, tôi sẽ tôn kính Ngài và Chư Phật để đảm bảo rằng thế giới sẽ có đủ hương thơm và tốt, phủ khắp trong các vùng; và tất cả mọi sinh vật, bao gồm cả những người ở trong địa ngục, quỷ ác và súc sinh, cho đến những người ở cõi Thiên Thượng nhân gian đang chịu nghiệp báo, nếu họ ngửi được mùi hương thơm đó, họ sẽ được giải thoát và trở lại cảm thấy hạnh phúc và an vui”.
Trong khi thái tử Năng-đà-nô cúi đầu tôn kính Phật, thì khắp các thế giới tự nhiên đều tỏa ra mùi hương ngát ngây. Mọi sinh vật đều cảm nhận được mùi hương đó, và cảm thấy hứng thú và yên bình. Thái tử Năng-đà-nô vui mừng khi nhờ Phật ban cho mình sự thọ ký như vậy, và tiếp tục nghe Ngài thuyết giảng sau khi lễ Phật đã kết thúc.
Nhờ công đức đó, Thái tử Năng-đà-nô đã sanh ra nhiều thân thể và trải qua nhiều kiếp, luôn nhớ giữ lời thề nguyện chăm sóc Phật sự và cứu rỗi chúng sinh, mong muốn sớm đạt được những ước mơ và phát nguyện của mình.
Vì ngài tu tập cần cù như thế nên đã trở thành Phật ở cõi Bất Tận và hiện đang hiện diện trong vô số thế giới để giáo hóa chúng sinh.
Ý nghĩa danh hiệu
Tên gọi khác của Bồ Tát Đẳng Giác là Tam-mạn-đà Bạt-đà-la hoặc Tam-mạn-đà Bạt-đà (Samntabhadra) trong tiếng Phổ Hiền. Bồ Tát Đẳng Giác này có khả năng hiện thân ở mọi nơi và được tôn vinh trong mười phương pháp giới, tùy theo nhu cầu của tất cả chúng sinh.
Ngài là một trong những vị Bồ Tát quan trọng theo Phật Giáo Đại Thừa. Theo kinh Pháp Hoa, ngài được miêu tả là vị Bồ Tát ở quốc độ của Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương Như Lai, nằm ở phía Đông cõi Ta Bà. Ngài đã lãnh đạo 500 vị Đại Bồ Tát đến nghe pháp và phát tâm hộ trì chánh pháp của Đức Phật Thích Ca khi thuyết kinh Pháp Hoa trên thế gian này.

Phổ Hiền Bồ Tát được coi là người bảo vệ cho những người truyền bá đạo pháp và đại diện cho “Tính đồng nhất và khác biệt” – khả năng hiểu thấu bản chất của sự đồng nhất và khác biệt.
Biểu tượng – Pháp khí – Thờ phụng
Samntabhadra (Tam-mạn-đà Bạt-đà-la) thể hiện sự từ tâm và Phật pháp. Ngài thường được liên kết với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và hai vị này được xem như những người đi đầu trong việc tu hành đạo Phật Thích Ca Mâu Ni – người đã truyền đạo cho hai vị này. Ngài là Bồ Tát đầu tiên trong Ngũ Thiền Bồ Tát, tương ứng với Ngũ Thiền Phật của Bắc Tông. Ngài trụ xứ về phía Đông.
Bồ Tát Phổ Hiền thường được tôn thờ cùng với Phật Thích Ca (Sakya) và Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī). Bồ Tát đi trên con voi trắng có 6 ngà; con voi trắng là biểu tượng của trí huệ vượt qua các trở ngại, 6 ngà biểu thị cho sự chiến thắng 6 giác quan.
Tại Tây Tạng, người ta đã từng tôn thờ Adi Buddha nhưng hiện nay chỉ các tín đồ của tông Nyingma vẫn duy trì phong tục thờ phụng đó. Một số phái Mật Tông ở khu vực Hy Mã Lạp Sơn cho rằng Bồ Tát mới là người sáng lập ra Mật Tông Phật Giáo, không phải Đại Nhật Phật. Đây là tôn giáo tìm cách hợp nhất với thần linh.
Tại Trung Quốc, Bồ Tát Phổ Hiền thường được tôn thờ cùng với Phật Thích Ca và Bồ Tát Văn Thù. Ngoài ra, Phổ Hiền Bồ Tát còn được xem là một trong bốn Đại Bồ Tát. Nơi Bồ Tát lưu trú sau khi cưỡi voi trắng 6 răng từ Ấn Độ sang Trung Quốc là núi Nga Mi, với ý nghĩa 6 răng tượng trưng cho 6 phương pháp tu hành để đạt tới cõi Niết Bàn và 4 chân biểu thị 4 điều như ý, 4 loại thiền định.
Ở Nhật Bản và nhiều vùng khác, người ta tôn sùng hình tượng bí ẩn của Phổ Hiền Dương Mệnh Bồ Tát – Fugen Emmei Bosatsu.
Trong tín ngưỡng Ngũ Phật, Phổ Hiền Bồ Tát được xem là một trong nhóm thuộc Phật Đại Nhật (Vairocana). Biểu tượng của Bồ Tát Phổ Hiền bao gồm ngọc như ý, hoa sen và đôi khi là cuốn sách ghi chép thần chú của Bồ Tát.
Trong Kim Cương Thừa, tên Phổ Hiền Bồ Tát được dùng để chỉ ādi-buddha, thể hiện của dharmakāya. Vị Phổ Hiền này (không phải Đại Bồ Tát) được vẽ với màu xanh đậm, biểu tượng cho tánh Không. Bức tranh cũng vẽ Phổ Hiền Bồ Tát kết hợp với nữ thần sắc trắng, biểu tượng cho sự thống nhất. Trong phép mahāmudrā, thân của Phổ Hiền Bồ Tát là saṃbhogakāya và đóng vai trò trung tâm.
Phổ Hiền Bồ Tát thường xuất hiện trong bộ Thích Ca Tam Tôn (Sakya Shanzon) cùng với Phật Thích Ca và Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, như đã đề cập ở trên. Ngài đứng ở bên phải, trong khi ngài Văn Thù đứng ở bên trái và thỉnh thoảng được bảo vệ bởi 16 Thiên Thần trong khi đọc kinh Bát Nhã.
Bồ Tát Phổ Hiền thường được tôn thờ cùng với Phật Thích Ca (Sakya) và Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī). Bồ Tát đi trên con voi trắng có 6 ngà; con voi trắng là biểu tượng của trí huệ vượt qua các trở ngại, 6 ngà biểu thị cho sự chiến thắng 6 giác quan.
Ngài thường được miêu tả như một Bồ Tát với vương miện và trang sức quý giá như một vị hoàng đế, và trong nhiều hình ảnh và tượng điêu khắc, ngài được vẽ cưỡi trên một con voi trắng 6 ngà; con voi trắng thường được coi là biểu tượng cho sáu giác quan. Pháp khí của ngài cũng thể hiện cho sự chiến thắng đối với sáu giác quan. Pháp khí là một viên bảo châu thường được ngài cầm ở tay trái hoặc tay phải cầm hoa sen, và viên bảo châu được treo trên đóa hoa. Trong nhiều hình ảnh, ngài được vẽ với hai bàn tay bắt ấn với ngón cái và ngón trỏ chạm nhau để tạo thành hình tam giác. Trong một số hình ảnh khác, ngài cầm cuốn kinh hoặc Kim Cương Chử ở tay trái.
Tranh tượng của Phổ Hiền Dương Mệnh Bồ Tát ở Nhật Bản có 32 cánh tay, ngồi trên 4 con voi trắng hoặc trên một con voi trắng có 4 đầu. Trong hội họa Phật Giáo Mật Tông, ngài được sử dụng màu xanh lục hoặc vàng để thể hiện. Trong ảnh tượng của tông Nyingma Tây Tạng, Phổ Hiền Bồ Tát được miêu tả trong tư thế Yab-Yum ở trung tâm của Mạn-đà-la Shitro – Mạn Đà La của Thái Hòa. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, vị Bồ Tát này cũng được biểu thị trong hình tướng phẫn nộ được gọi là Chemchok Heruka. Trong hình tướng này, ngài được miêu tả là một Thần có cánh với thân hình màu nâu đỏ sẫm, có 3 mặt, 6 tay và 4 chân, thường được miêu tả trong tư thế ôm lấy người phối ngẫu màu đỏ tươi.
Kinh Mười Nguyện Phổ Hiền – Thiền Sư Nhất Hạnh
Con xin đem ba nghiệp thanh tịnh.
Kính lạy tất cả hằng sa Bụt.
Trong các thế giới khắp mười phương.
Quá khứ, vị lai và hiện tại.
Thần lực của hạnh nguyện Phổ Hiền.
Giúp con có mặt khắp mọi nơi.
Nơi đâu có Bụt là có con.
Bụt là vô lượng, con vô lượng.
Trong hạt bụi có vô số Bụt.
Mỗi vị an trú chúng hội mình.
Đức tin của con vẫn tràn đầy.
Trong mọi hạt bụi của pháp giới.
Con đang sử dụng biển âm thanh.
Phát ra ngôn từ rất vi diệu.
Tán dương biển công đức của Bụt.
Cho đến vô số kiếp về sau.
Lấy những tràng hoa vi diệu nhất.
Hương thơm, âm nhạc và tàng lọng.
Sử dụng mọi thứ trang nghiêm ấy.
Con đem cúng dường các Như Lai.
Các thức y phục và hoa hương.
Đèn đuốc, trầm hương và tọa cụ.
Mỗi thứ đều thành ra sung mãn.
Con xin cúng dường các Như Lai.
Con đem tâm hiểu biết rộng sâu.
Tin tưởng chư Bụt trong ba đời.
Con nương sức hạnh nguyện Phổ Hiền.
Cúng dường khắp hết các Như Lai.
Từ xưa con đã tạo nghiệp xấu.
Vì tham, sân, si từ vô thỉ.
Do thân, miệng, ý mà phát sinh.
Nay con đều sám hối tất cả.
Con xin tùy hỷ mọi công đức.
Của các chúng sinh trong mười phương.
Các bậc hữu học và vô học.
Các bậc Như Lai và Bồ Tát.
Những ngọn đèn sáng soi thế gian.
Hoặc mới thành tựu đạo giải thoát.
Con xin tất cả đều thương tưởng.
Chuyển bánh xe pháp để độ đời.
Các Bụt đang thị hiện Niết Bàn.
Con cũng chí thành cầu như thế.
Xin hãy ở lại đời mãi mãi.
Để làm lợi lạc cho chúng sanh.
Con xin tán lễ cúng dường Bụt.
Thỉnh Bụt ở lại độ chúng sanh.
Căn lành tùy hỷ và sám hối.
Xin đem hồi hướng cho đạo Bụt.
Con xin đem hết công đức này.
Hồi hướng tất cả cho Tam Bảo.
Cả tánh và tướng trong pháp giới.
Hai Đế dung thông ấn tam muội.
Biển công đức vô lượng như thế.
Con xin hồi hướng không giữ lại.
Nếu có chúng sanh nào dại dột.
Bằng thân, bằng ý hoặc bằng lời.
Bài báng phá hoại đạo giải thoát.
Xin cho nghiệp chướng được tiêu trừ.
Mỗi giây, trí tuệ trùm pháp giới.
Độ khắp mọi loài lên bất thối.
Hư không, chúng sanh không cùng tận.
Phiền não, nghiệp báo không cùng tận.
Bốn thứ kể trên thật vô biên.
Hồi hướng của con cũng như thế.
Thích Nhất Hạnh dịch, (279, tạng Kinh Đại Chánh).
Trả lời