Sơ lược về lịch sử hội thánh truyền giáo Cao Đài

Theo Lời Phật tìm hiểu, Hội Thánh được thành lập dựa trên hướng dẫn của Chúa Trời và là sự kết hợp của các tôn giáo Cao Đài trước đây tại Trung bộ, cũng như là sự liên kết của tôn giáo Minh Sư. Dưới đây là một số thông tin lịch sử tóm tắt.

I. BUỔI ĐẦU TRUYỀN ĐẠO TẠI TRUNG KỲ

Đức Cao Đài đã muốn truyền bá Đạo vào Trung Kỳ từ rất sớm, trong đàn cơ ngày 22/8/1926, Thầy đã dạy rằng: “Thầy sẽ giao Trung Kỳ cho con mở Đạo” (1). Ban đầu, công cuộc truyền bá Đạo ra Trung Kỳ được các chức sắc thực hiện nhưng không được thành công do sự cấm đoán của chính quyền bảo hộ Nam Triều (Huế) và thực dân Pháp. Sau đó, những người gốc miền Trung khi đi làm ở Nam và gặp Đạo đã đưa Đạo truyền ra khi trở về quê hương. Đạo Cao Đài được truyền bá tại nhiều nơi khác nhau trong Trung Kỳ từ các chi phái Đạo trong miền Nam.

1. Huế.

Toà Thánh Tây Ninh: Vào năm 1929, Phối Sư Thái Thơ Thanh đã đến Huế để khuyến khích mở đạo nhưng không thành công nên phải quay trở về Nam. (2).

2. Bình Định.

Toà Thánh Tây Ninh: Năm 1929, ngài Vương Quan Kỳ quen biết Tổng đốc Vương Tứ Đại nên đã mang đạo ra truyền ở Bình Định nhưng không thành công. (3) Năm 1939, các vị hướng đạo từ Tây Ninh hợp sức với cụ Cả Thiếp Nguyễn Hữu Hào, người từng là đạo hữu Cao Đài về Tam Quan từ trước, để truyền bá và thành lập các Thánh đường ở Tam Quan. (4).

Cầu Kho: Các ông Lê Đại Luân, Phan Nghị từ Thánh thất Cầu Kho đã truyền bá Đạo rộng rãi ở Tam Quan vào năm Nhâm Thân (1932). Ngoài ra, các ông Dương Minh Tánh, Trần Châu, bà Hoàng Thị Lễ cũng đã mang mối Đạo từ Cầu Kho về. Những quý vị này đã lan truyền đạo phật một cách rộng rãi và xây dựng được Thánh sở đầu tiên là Thánh thất Tân Định vào năm 1932 tại xã Tam Quan, Hoài Nhơn, Bình Định. Sau đó xuất hiện hàng loạt Thánh thất như: Tăng Long, Ngọc An, Phụng Sơn, Phụng Mỹ, Mỹ Thọ, An Nghiệp, Lộ Diêu, v.V..

Phái Tiên Thiên đã chào đón ông Huỳnh Thanh nhập môn Cao Đài tại Thánh tịnh Đại Thanh vào năm Kỷ Mão (1939). Sau đó, ông đã truyền đạo tại quê nhà ở Hội Vân, Phù Cát, Bình Định. Ban đầu, truyền đạo gặp nhiều khó khăn và trở ngại nhưng số lượng tín đồ vẫn tăng lên không ngừng.

Buổi đầu truyền đạo tại Trung Kỳ đã diễn ra thành công, với sự tham gia nhiệt tình của đông đảo người dân địa phương và những người quan tâm đến đạo Phật, tạo nên một không khí trang trọng và thiêng liêng.

– Ngoài các chi phái kể trên còn có phái Minh Chơn Lý cũng đem đạo truyền về Bình Định.

3. Quảng Ngãi.

Từ trước năm 1935, các chức sắc của Toà Thánh Tây Ninh và Bến Tre đã được truyền đạo ra Quảng Ngãi.

Cầu Kho: Người ta kể rằng các ông Nguyễn Tiên, Nguyễn Lưỡng, Nguyễn Khiết, Trần Hào từ Mộ Đức đã giới thiệu mối đạo Cầu Kho tại Hoài An vào năm Ất Hợi (1935) và thành lập Thánh thất đầu tiên ở Hoài An vào năm 1936. Sau đó, các ông Lâm Thành Công, Trần Nhiều tại Sa Huỳnh đã thành lập Thánh thất Phổ Thạnh (1936), Viễn Thúy (1937).

Tiếp sau đó là nhiều địa điểm truyền đạo và các đền thờ được xây dựng như Sông Vệ, Nghĩa Lập, Bồ Đề, Trung Hòa, Nghĩa Hưng, và nhiều nơi khác. Mặc dù việc truyền bá đạo Cao Đài bị cấm bởi chính quyền thời đó, nhưng ở đây, việc truyền đạo khá thuận tiện vì phần lớn các chánh phó tổng, hương chức và trí thức đều là những người nhập môn trước tiên và đi đầu trong việc truyền đạo.

Tìm hiểu thêm: Các quy tắc trong đạo Cao đài – Ngũ giới cấm

4. Phú Yên.

Minh Chơn Lý: Ngài Ngô Phụng Trì là người tiên phong mang đạo Cao Đài về Phú Yên từ phái Minh Chơn Lý vào năm 1936 và thành lập Thánh đường Đông Phước ở Tuy Hòa.

Tòa Thánh Tây Ninh: Ông Võ Hóa thuộc Tòa Thánh Tây Ninh đã mang đạo truyền về quê ở Tuy Hòa và thành lập Thánh thất Phước Lâm vào năm 1938 (sau đổi tên thành Minh Đức). Tại đây đã thành công trong việc truyền đạo cho các vị sau này là hướng đạo như: Dương Bình Tống, Nguyễn Khoa Trường, Đặng Quang Minh.

Vào năm 1938, hội hướng đạo Cầu Kho đã được mời đến Tam Quan để chữa bệnh và trong dịp này, các ông Nguyễn Nhựt Tân, Lê Chơn Nho, Võ Thượng Kính, và nhiều người khác đã thành lập Thánh thất Phú Lộc (sau này là Minh Trung), An Nghiệp (Minh An) ở Tuy Hòa. Sau đó, có thêm các Thánh thất Định Trung (Tịnh Sơn), Gành Đỏ (Thiện Hòa).

Trong tương lai, Cao Đài Cứu Quốc Phú Yên sẽ thêm các điểm thờ phượng như Chí Thanh (Tịnh Quang), Vùng 2 An Ninh (Tịnh An), Vùng 5 An Ninh (Tịnh Thành) và Trung Nam.

Trong cuộc sống hàng ngày, các Thánh thất tại Phú Yên vẫn duy trì liên lạc với các nguồn đạo ở miền Nam. Tuy nhiên, sau ngày kháng chiến toàn quốc vào ngày 19/12/1945, các cơ sở đạo tại đây đã mất liên lạc với miền Nam. Để nối lại mạch đạo, các Thánh thất đã tổ chức họp và chọn hai đại diện là Nguyễn Khoa Trường và Đặng Quang Minh của bổn đạo Cao Đài để đi đến miền Nam. Tuy nhiên, kế hoạch này đã không thành công. Sau khi biết tin về sự phát triển của cơ đạo ở Quảng Ngãi và Quảng Nam, các vị đã liên hệ với mạch đạo ở Quảng Nam và tham gia sinh hoạt trong Cơ Quan Truyền Giáo Trung Bộ cho đến những thời điểm sau đó.

5. Quảng Nam.

Toà Thánh Tây Ninh: Vào năm 1932, Tòa Thánh Tây Ninh đã gửi Giáo sư Thái Văn Gấm đi truyền giáo ở Quảng Nam nhưng sau đó ông bị bắt và trả về Nam. (8).

Tiên Thiên: Vào năm 1932, hai gia đình anh em ruột là ông Xã Xước Trần Công Trác và bà Mục Cưu Trần Thị Cải ở Điện Bàn, Quảng Nam, đã gia nhập Cao Đài ở miền Nam và đưa về quê hương của mình.

Một số đền thờ được đề cập trước đó thuộc các tôn giáo khác nhau đã được hợp nhất trong Cơ Quan Truyền Giáo và sau đó thành lập Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài. Bên cạnh việc truyền bá đạo một cách tự do của tín đồ, còn có phần truyền giáo theo ý Thánh và các vị thần linh.

II. CÔNG CUỘC TRUYỀN ĐẠO VỀ TRUNG KỲ THEO THÁNH LỆNH

Đoàn Tứ Linh Đồng Tử được thành lập vào cuối năm Quý Dậu (1933) bởi Đức Lý Giáo Tông. Trong đội cơ ngày 24 tháng 8 năm Giáp Tuất (1934) tại Thánh tịnh Đại Thanh thuộc phái Tiên Thiên ở Gò Vấp, Gia Định, Đức Thượng Đế đã giao trọng trách “truyền đạo Trung Kỳ” và “hoạt khai Chơn đạo” cho Đoàn Truyền giáo. Thành phần của đoàn gồm Giáo sư Trần Công Ban làm Trưởng đoàn và các vị Thân Đức Giang, Thanh Long, Bạch Phụng, Kim Quy, Xích Lân, Trần Quang Châu. Đoàn đã bắt đầu hành trình từ Thánh tịnh Đại Thanh đến Quảng Nam vào ngày 15/9/Giáp Tuất (1934).

Tại Trung Kỳ xưa kia, việc lan truyền đạo Cao Đài gặp nhiều khó khăn do chính quyền cấm. Tuy nhiên, ở Quảng Nam, đoàn Truyền giáo cùng với những thanh thiếu niên non nớt, không có danh vị và chức phận trong xã hội, ít bị chú ý từ chính quyền nhờ sự bảo vệ của Ơn Trên và sự giúp đỡ của những người quyền thế và quý tộc. Ban đầu, đoàn đã thành công trong việc thuyết giáo cho các vị Nguyễn Quang Châu, Nguyễn Đán và Lê Trí Hiển. Thánh tịnh Thanh Quang và Thánh thất Từ Quang là hai Thánh sở đầu tiên của đoàn Truyền giáo tại Quảng Nam được thành lập vào năm 1934 và 1935. Sau đó là sự thành lập của nhiều Thánh thất khác như Nam Trung Hòa, Linh Bửu và Vĩnh Quang vào năm 1936 và những năm tiếp theo.

Trong mùa hè năm Bính Tý (1936), Đức Trần Hưng Đạo đã đến thăm nhà cụ Lê Trí Hiển ở Quảng Nam và đưa ra kế hoạch xây dựng Hưng Trung Thánh Tòa để thực hiện sứ mạng Trung Hưng của nền tân pháp Cao Đài. Tên tổ chức đã được đổi thành Hưng Trung Thánh Tòa để tránh nhầm lẫn với tên tổ chức chính trị thời bấy giờ.

Vào ngày 14.02.1937, tại Tòa Thánh Hậu Giang (10), Đức Cao Đài đã truyền giáo cho hai vị lãnh đạo của Hội Thánh Minh Chơn Đạo tại Trung Kỳ là ngài Ngọc Chưởng pháp Trần Đạo Quang và ngài Bảo đạo Cao Triều Phát. Hai vị đã tuân theo và lên đường. Ngài Trần Đạo Quang đã gặp gỡ các đạo hữu Minh Sư, giải thích, hướng dẫn và chấp nhận họ tham gia Cao Đài. Ngài Cao Triều Phát đã đến Huế gặp thượng thư Bộ học Phạm Quỳnh, người đã quen biết từ trước tại Pháp, để thuyết phục triều đình Huế nới lỏng các hạn chế và chấp nhận tôn trọng đạo Cao Đài.

Để truyền đạo, việc sắp xếp cơ cấu tổ chức và nhân sự quan trọng. Vào tháng 7 năm Đinh Sửu (1937), tại Thánh thất Nam Trung Hòa, quý vị hướng đạo đã chào đón Thánh lệnh và Nội Luật Thánh Tòa Khai Giáo Bắc Trung do Bảo pháp Trần Thảnh Thơi chuyển từ Bát Bửu Điện trong Nam ra. Nội luật quy định việc tổ chức Cửu viện, cơ cấu điều hành giáo hội để chuẩn bị cho việc tổ chức công khai giáo hội vào năm Mậu Dần. Vào đêm 08 tháng 01 năm Mậu Dần (1938), tại động Huyền Không thuộc Ngũ Hành Sơn, Đức Cao Đài đã phong phẩm cho một số vị đầu tiên như: Hiệp lý: Lê Trí Hiển; Giáo sư: Nguyễn Chơn Khai; Giáo hữu: Nguyễn Như Sơ; Giáo hữu: Nguyễn Như Liên.

Thánh sở Trung Thành và Đại hội Long Vân Đệ Bát: Vào năm Đinh Sửu (1937), Trần Đạo Quang được chuyển đến miền Trung để hợp tác với các nhà đạo địa phương xây dựng Thánh sở tạm thời thay cho Hưng Trung Thánh Tòa. Sau đó, Đức Lý Giáo Tông đặt tên cho Thánh sở này là Trung Thành Thánh Thất. Lễ khánh thành được tổ chức vào tháng 4 năm Mậu Dần (1938), cũng là ngày Đại hội Long Vân đệ bát (11) và đồng thời công bố nền Đạo ở Trung Kỳ. Liên Hòa Tổng Hội có trách nhiệm tổ chức Đại hội Long Vân và các Hội Thánh như Minh Chơn Đạo, Tiên Thiên đã tổ chức thành phái đoàn đi dự lễ.

Tại Thánh tịnh Thanh Quang vào ngày 25 tháng 4 năm Mậu Dần (1938), Đức Diêu Trì Kim Mẫu đã truyền phong Thánh cho ba người là Lê Chơn Giác – một giáo sư nữ, Trương Thị Ngọc Dung – một giáo hữu nữ và Trần Thị Tuyết – một lễ sanh nữ. Điều này đã dẫn đến sự thành lập chính thức của Ban Trị sự Trung ương Nữ Phái Liên Đoàn với Bà Lê Chơn Giác làm Chánh Hội trưởng, Bà Lê Thị Tịnh làm Phó Hội trưởng và Cô Trương Thị Ngọc Dung làm Chánh Thư ký. Tổ chức này được đặt tại Thánh tịnh Thanh Quang, với một Chi đoàn và Ban Trị sự để hướng dẫn nữ phái. Mục đích của tổ chức này là khuyến khích nữ giới tham gia học vấn và trí tuệ, cải thiện quan niệm về đời sống gia đình và xã hội.

Quyền Hội Thánh Trung Kỳ được thành lập sau khi Thánh thất Trung Thành được xây dựng và giới thiệu công khai Đạo. Với sự gia tăng số lượng bổn đạo đến Thánh thất, Thánh ý nhận thấy cần phải có một tổ chức lãnh đạo để hướng dẫn việc tu học. Ban Hướng đạo và Ban Cửu viện là thành viên của tổ chức lãnh đạo này, và Đức Trần Hưng Đạo là Tổng lý Vô vi. Vào đầu năm Kỷ Mão (1939), các Đại tiểu hội vạn linh đã được tổ chức để kỷ niệm năm năm truyền đạo Trung Kỳ và chào mừng ra đời của Quyền Hội Thánh Trung Kỳ, cổ động cho việc phát triển Nông viện.

III. SỰ HỢP NHẤT CỦA CƠ ĐẠO TẠI TRUNG KỲ.

1. Tình hình chung của cơ đạo tại Trung Kỳ.

Việc bắt giữ, giam giữ: Sau các cuộc hội ngộ vào đầu năm Kỷ Mão (1939), các thành viên Hội Đạo Cao Đài bị kết án tù và treo, các đền thờ bị phong tỏa, hoạt động của Nông viện bị huỷ bỏ. Từ năm 1939 đến 1942, giới đạo hữu Cao Đài bị đánh đồng với thân Nhật và Đức. Chính quyền thực dân Pháp đã thực hiện các chính sách cấm đoán và đàn áp tôn giáo. Các đền thờ và trung tâm tôn giáo dần bị phong tỏa; các nhà lãnh đạo và thành viên của Hội Đạo Cao Đài bị giữ trong trại tù. Sau khi Nhật Bản đảo chính Pháp vào ngày 09.3.1945, các thành viên Hội Đạo Cao Đài bị trục xuất đến các trại an trí, và họ phải đối mặt với việc giữ chức vụ và tôn giáo của mình. Các cuộc lễ Đại Đạo phục hưng được tổ chức khắp nơi để chào đón ngày đoàn tụ của toàn bộ giáo phái. Ngài Huỳnh Ngọc Trác cùng một số thành viên Hội Đạo Cao Đài đã tham dự lễ và giải quyết một số vấn đề tại Quảng Ngãi. Sau khi dự lễ Đại Đạo phục hưng tại các đền thờ Sông Vệ, Mỹ Long, và nhiều địa điểm khác, vào ngày 10 tháng 7 năm Ất Dậu (1945), ngài và một số thành viên Hội Đạo Cao Đài phải trải qua những khó khăn tại Quảng Ngãi.

Gặp gỡ Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa: Vì sự kiện xảy ra tại miền Trung vào năm 1945 ảnh hưởng đến đạo Cao Đài, vào tháng 4 năm 1946, một đoàn đại biểu đến từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định đã đi đến Hà Nội để đại diện cho bổn đạo Cao Đài gặp Phối sư Phùng Văn Thới và Ngoại viện trưởng của Hội Thánh Bến Tre tại Thánh thất Minh Khai. Họ cùng phối hợp với danh nghĩa Cao Đài Trung Bắc Bộ đến gặp Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Sau cuộc gặp gỡ này, tình hình đạo sự ở miền Trung được cải thiện, hoạt động tín ngưỡng tôn giáo được hiểu rõ hơn và việc gặp gỡ thăm viếng giữa các tỉnh trở nên dễ dàng hơn.

Sau khi liên lạc với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, các lãnh đạo đạo giáo ở hai vùng Trung và Bắc đã đồng ý thành lập Cơ Quan Truyền Giáo Trung Bắc Bộ để có tên gọi chung cho việc giao tiếp với chính phủ, các tổ chức và tôn giáo. Phối sư Phùng Văn Thới là Chủ tịch và Giáo sư Nguyễn Quang Châu là Phó Chủ tịch. Trụ sở phía Bắc được đặt tại Thánh thất Minh Khai, Hà Nội và trụ sở miền Trung được đặt tại Thánh thất Trung Thành. Quốc hội đã ban hành Quốc thư số 30/QH ngày 07.11.1946 do Chủ tịch Tôn Đức Thắng ký, gửi cho Phối sư Phùng Văn Thới. Quốc thư này xác nhận tinh thần yêu nước và công nhận quyền tự do tín ngưỡng của đạo Cao Đài.

3. Sau khi kháng chiến toàn quốc kết thúc vào ngày 19.12.1946, Cơ Quan Truyền Giáo miền Trung bị cô lập vì phải tản cư về vùng quê và không thể liên lạc được với Cao Đài ở Nam bộ hoặc Cơ Quan Truyền Giáo ở Bắc bộ. Vì vậy, vào ngày 09 tháng 01 năm Mậu Tý (1948), tại Thánh thất Trung An, An Tráng, Quảng Nam, Đại hội được tổ chức với sự tham gia của đại diện bổn đạo Cao Đài từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên để đổi tên Cơ đạo miền Trung thành Cơ Quan Truyền Giáo Trung Bộ do ngài Hiệp lý Trần Nguyên Chất làm Hội trưởng.

IV. THÀNH LẬP HỘI THÁNH TRUYỀN GIÁO CAO ĐÀI.

1. Để chuẩn bị cho việc hình thành luật pháp của một giáo hội, Ơn Trên đã giảng dạy về chỉnh cơ lập pháp bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm Nhâm Thìn (1952) (13). Trong năm 1952, các làng ven biển miền Trung bị quân Pháp phá hủy, thiêu rụi nhà cửa. Hạn hán xảy ra khiến cho đạo hữu gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, tình đồng đạo và sự giúp đỡ lẫn nhau ngày một phát triển (14).

Sau theo đúng ý muốn của toàn thể đạo hữu, vào ngày 28.9.1953, 20 đại diện đến từ các tỉnh đạo đã tụ họp tại Sài Gòn với các vị Trần Văn Quế, Lương Vĩnh Thuật, Trần Quang Châu, Trần Luyện để tái lập Cơ Quan Truyền Giáo (15) với ngài Trần Văn Quế làm Hội trưởng, trụ sở tạm đặt tại Thánh thất Từ Vân (Sài Gòn). Tạp chí Nhân Sinh (16) của Cơ Quan Truyền Giáo Cao Đài đã xuất bản số đầu tiên vào ngày 15/9/1954, nhằm phổ biến giáo lý đạo và kêu gọi sự đoàn kết giữa các chi phái đạo. Sau đó, đoàn phái của Cơ Quan Truyền Giáo Cao Đài bao gồm các vị Trần Văn Quế, Lương Vĩnh Thuật, Trần Quốc Luyện đã tham dự Hội nghị Tôn giáo Thế giới, được khai mạc vào ngày 01/8/1955 tại Tokyo, Nhật Bản. (17).

Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài được thành lập vào ngày 01/6/Bính Thân (1956) tại miền Trung với chủ trương không phân chi phái, không thành lập Hội Thánh. Ban đầu, cơ đạo chỉ có 50 Thánh thất và hơn 6 vạn tín đồ, nhưng đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp. Vì vậy, cần có một Hội Thánh để lãnh đạo tinh thần và giáo hóa bổn đạo. Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài do đạo trưởng Phối sư Trần Văn Quế làm Chủ trưởng, được thành lập nhân dịp khánh thành Trung Hưng Bửu Tòa tại Đà Nẵng.

Trong thời kỳ Chỉnh Cơ Lập Pháp này, Ơn Trên đã chỉ dẫn cho Hội Thánh thực hiện sứ mệnh Trung Hưng với phần Tướng pháp gồm Ba hệ thống Bốn Cơ quan hành chính trị đạo, phần Bí pháp với Tứ bảo pháp, phần Tâm pháp với bốn cấp độ kỹ năng tu luyện. Hội Thánh thực hiện đường lối hành đạo tịnh tiến và truyền đạt tâm pháp đồng đều.

4. Mở rộng Cơ Giáo Pháp: Sau giai đoạn Chỉnh Cơ Lập Pháp, vào ngày 15 tháng 6 năm Đinh Dậu (1957), Đức Ngọc Đế Cao Đài đã ra lệnh mở rộng Cơ Giáo Pháp (20). Đây là thời kỳ Hội Thánh và tất cả đạo hữu tu và hành đạo theo lời dạy của Ơn Trên trước đó. Hội Thánh đã đào tạo con người, hoàn thiện tổ chức, tạo ra hàng loạt cơ sở vật chất trên toàn quốc để phát triển giáo hội. Vào ngày 01 tháng 6 năm Giáp Thìn (1964), Thanh Niên Hưng Đạo Đoàn được thành lập để chỉ dẫn thanh thiếu niên trong giáo hội. Theo lời dạy của thượng đế, sau giai đoạn Mở rộng Cơ Giáo Pháp sẽ là giai đoạn Mở rộng Thành Đạo.

5. Đại hội Nhân sinh: Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Hội Thánh Truyền Giáo, vào ngày 01 tháng 6 năm Bính Tý (1996), Hội Thánh đã tổ chức Đại hội Nhân sinh toàn Hội Thánh tại Trung Hưng Bửu Tòa. Đại hội đã thông qua bản Đạo Quy, trong đó quy định con đường và tổ chức hoạt động tôn giáo của Hội Thánh, thành phần và cơ cấu chức sắc lãnh đạo Hội Thánh. (21) Tiếp theo là Đại hội Nhân sinh thứ hai vào ngày 01 tháng 6 năm Tân Tỵ (2001) (22), Đại hội Nhân sinh thứ ba vào ngày 29 tháng 5 đến 01 tháng 6 năm Bính Tuất (2006) cũng là dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hội Thánh Truyền Giáo.

Hội Thánh sẽ tổ chức Đại hội Nhân sinh lần thứ 4 từ ngày 04 đến ngày 05 tháng 6 năm 2011 để đánh giá kết quả tu học trong 5 năm qua và lập kế hoạch cho giai đoạn 2011-2016. Trong thời gian này, Ban Thường trực Hội Thánh sẽ đảm nhận vai trò lãnh đạo với Phối sư Thượng Hậu Thanh là Trưởng ban và Thừa sử Nguyễn Thanh Giang là Phó ban.

Trong thời gian gần đây, Toàn Hội Thánh đã đạt được nhiều thành tựu trong việc tu học và thực hành đạo. Hiện nay, Hội Thánh có 75 Họ Đạo và Cơ sở đạo, 06 Nhà tu phân bố trên toàn quốc, với 04 chức sắc Đại diện Hội Thánh tại các tỉnh thành. Về phần hành chánh đạo, Hội Thánh có 75 Ban Cai quản và 282 Ban Trị sự. Tổng số tín đồ là 47.114, với 365 chức sắc và 2453 chức vụ. (23).

Tóm lại, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài được thành lập vào năm 1956 từ đạo cao Đài của nhiều phái khác nhau tại miền Trung hợp lại và cũng nhờ sự hướng dẫn của Ơn Trên. Đạo Cao Đài đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, với nhiều cam go, thử thách và hy sinh của toàn bộ đạo hữu, và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Hội Thánh được Ơn Trên ban tặng quyền pháp để tổ chức giáo hội, giáo hoá nhân sinh và góp phần hoàn thành sứ mạng Trung Hưng trong kỳ ba tận độ của Đức Chí Tôn. (24).

Chú thích:.

(1) Toà Thánh Tây Ninh, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Quyển thứ nhứt, 1964, trang 40.

(2) Thanh Long, Tổng quan về Lịch sử của Đạo Cao Đài từ những ngày đầu tiên đến Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài. Bản in chữ, Sài Gòn, 1972, trang 6.

(3) Thanh Long, Vài Nét Đại Cương Lịch Sử Đạo Cao Đài… Sách đã dẫn (Sđd), tr. 6.

(4) Trần Hoài Thanh, Thời Kỳ Đầu Truyền Đạo tại Tam Quan. Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài (HTTGCĐ), Tổ Chức Đại Chúng, Tài Liệu Học Tập Và Tu Học. Đà Nẵng, tháng 6 năm 1969, trang 38-42.

(5) Trần Trung Nghĩa, Quá Trình Truyền Đạo Quảng Ngãi. HTTGCĐ, Cơ Quan Phổ Tế, Tài Liệu Học Tập Và Sinh Hoạt. Địa chỉ liên hệ, trang 34-37.

(6) Huyền Trân, Khái Lược Về Đạo Cao Đài. Bà Rịa-Vũng Tàu, 1997, tr. 16.

(7) Vân Vi, Về Chung Một Mối. HTTGCĐ, Cơ Quan Phổ Tế, Tài Liệu Sinh Hoạt Và Tu Học. Sđd, tr. 25-27.

(8) Thanh Long, Vài Nét Đại Cương Lịch Sử Đạo Cao Đài…. Sđd, tr. 6.

(9) Hồi Ký Thanh Long Lương Vĩnh Thuật. NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2013, tr. 137.

(10) Hồi ký Thanh Long Lương Vĩnh Thuật. Sđd, trang 255.

(11) Đây là một trong 12 Hội Long Vân được tổ chức bởi Liên Hòa Tổng Hội nhằm thúc đẩy sự đoàn kết trong giáo phái.

(12) HTTGCĐ, Thánh Truyền Trung Hưng. Tập I, bài 20.

(13) Đức Thái Bạch Kim Tinh dạy ngày 15/5/Đinh Dậu (1957). HTTGCĐ, Thánh Truyền Trung Hưng. Tập III, bài 12.

(14) HTTGCĐ, Lược Sử Đạo Cao Đài. Đà Nẵng, 1956, tr. 30.

(15) HTTGCĐ, Lược Sử Đạo Cao Đài. Sđd, tr. 31.

(16) Cơ Quan Truyền Giáo Cao Đài, Nguyệt san Nhân Sinh. Sài Gòn, Số 1, 15.9.1954.

(17) HTTGCĐ, Trung Hưng – Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập HTTGCĐ. NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2006, tr. 45.

(18) HTTGCĐ, Lược Sử Đạo Cao Đài. Sđd, tr. 33.

(19) HTTGCĐ, Lịch Sử Truyền Đạo Trung Kỳ. Bản đánh máy vi tính, 4/1988, tr. 36.

(20) HTTGCĐ, Thánh Truyền Trung Hưng. Tập III, bài 16.

(21) HTTGCĐ, Kỷ Yếu Đại Hội Nhân Sinh 1-6 Bính Tý (15.7.1996). NXB Thuận Hóa, Huế, 1998, tr. 11-20.

(22) HTTGCĐ, Kỷ yếu Đại Hội Nhân Sinh Lần Thứ 2. 1/6 Tân Tỵ, 21.7.2001.

(23) HTTGCĐ, Cơ Quan Phổ Tế, Tập san Sống Đạo. Số 17, Quý Tỵ, 2013, tr. 19.

(24) Theo tài liệu về Hội Thánh Truyền Giáo của Trương Bửu Phiệt (tháng 3 năm 2014).


Posted

in

by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *