Theo Lời Phật tìm hiểu, vào tháng 12-1999, nhiều chuyên gia về Ấn Độ giáo từ khắp nơi trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Bỉ và Hoa Kỳ đã hội ngộ tại New Delhi để thảo luận về vấn đề có liên quan đến việc Phật giáo có phải là một phong trào chống lại nghi thức tôn giáo Vệ đà hay một tôn giáo độc lập với truyền thống riêng biệt. Các chuyên gia đã đưa ra giả thiết về vấn đề này.
Vấn đề càng phức tạp hơn đối với những người Ấn có đức tin mạnh mẽ, hoặc một số những người hướng tới lý thuyết và lịch sử, hoặc những người cho rằng đã có sai sót trong quá trình nghiên cứu tiền sử. Thực tế, các nhà nghiên cứu tiếp cận vấn đề theo cách khác nhau, cho thấy tính nghiêm túc, phức tạp và ý nghĩa của vấn đề này.
Trong hơn 40 năm qua, sự khác biệt trong các phương pháp tiếp cận này đã gây ra nhiều vấn đề khi nghiên cứu về tôn giáo. Điều này đã dẫn đến việc xuất hiện nhiều tác phẩm văn học trong các ngôn ngữ như Anh, Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật, Pháp và Đức về chủ đề này. Trong cuốn sách 2500 năm của đạo Phật (2500 Years of Buddhism, New Delhi, 1956), một học giả nổi tiếng Ấn Độ, ông S. Radhakrishnan đã miêu tả Phật giáo như “một ngành tín ngưỡng cổ xưa hơn đạo Hindu, có thể coi là một tôn giáo khác biệt”. Kể từ khi Bà La Môn giáo thống trị lĩnh vực học thuật của Ấn Độ khoảng một thiên niên kỷ trước, học giả Ấn Độ như S. Radhakrishnan đã cố gắng tóm tắt lịch sử của Phật giáo Ấn Độ và mở rộng quan điểm của mình.
Xung đột giữa Phật giáo và Bà La Môn giáo, sự biến đổi di sản Phật giáo tại Ấn Độ và sự biến mất của Phật giáo (tôn giáo đã từng là niềm tin sống động từ đất Ấn suốt trong nhiều thế kỷ thời đầu trung cổ) là những nguyên nhân để các nhà nghiên cứu tìm hiểu về nền văn minh cổ xưa của Ấn Độ và sự truyền bá quan điểm của Bà La Môn giáo suốt thời kỳ trung cổ cho đến ngày nay. Tuy nhiên, để nghiên cứu về Phật giáo cần phải sử dụng quan điểm của chính Phật giáo. Những mối quan hệ của Phật giáo với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo cần phải được quan sát từ quan điểm lịch sử cụ thể bằng phương pháp khoa học.
Trong bài viết này, chúng tôi tập trung vào sự khác biệt của chúng tôi về các lý thuyết hiện tại về nguồn gốc của Phật giáo có liên quan đến Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo.
Một điệu múa của người Ấn.
1. Nguồn gốc Phật giáo.
Có vẻ như ở Ấn Độ, một số người có xu hướng miêu tả Phật giáo như là một giáo phái của Ấn Độ giáo, coi Phật Thích Ca là một vị Hindu và sử dụng các yếu tố của Ấn Độ giáo cũng như Công giáo để chống lại tà thuyết và vệ đà như Đức Phật Thích Ca. Thuyết này đã được truyền bá kỹ lưỡng và cẩn thận tại Ấn Độ, khiến cho các học giả và nhà sử học phải mất nhiều thời gian để loại bỏ các quan niệm sai lầm và tìm ra cách nghiên cứu Phật giáo một cách nghiêm túc và khoa học từ quan điểm lịch sử. Xu hướng này tại Ấn Độ cho thấy sự quan tâm rộng rãi của nhân dân đối với Phật giáo, và chủ yếu thể hiện thái độ chung của người Ấn khi tiếp cận và giải thích về Phật giáo.
Nói chung, hiện nay hầu hết người Ấn tin tưởng sâu sắc vào Ấn Độ giáo hơn là Phật giáo, mặc dù Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng hơn cả về lý thuyết và thực tiễn.
Thường thấy rằng Ấn Độ giáo (một tôn giáo mới xuất hiện ở Ấn Độ) đã chuyển đổi hầu hết dân Ấn Độ thành tín đồ của nó và giữ độc quyền không chỉ về tâm linh mà còn cả về các lĩnh vực đời sống, tư tưởng chính trị, kinh tế và khoa học. Tuy nhiên, theo cách tư duy hiện đại, xu hướng này đã khiến người Ấn Độ cô lập khỏi cộng đồng quốc tế, khi thế giới đã bước vào thế kỷ 21.
Nhìn chung, người Hindu có thái độ tích cực với Phật giáo, cho rằng Phật giáo là một phần của Ấn Độ giáo và đồng thời cũng hòa trộn vào trong đó. Đức Phật Thích Ca được coi là một nhà cách tân vĩ đại của đạo Hindu và cũng là một vị thần quan trọng trong đạo này.
Vì vậy, chúng ta cần phải khảo sát kỹ và suy nghĩ khác về việc Phật giáo là một tôn giáo độc lập và riêng biệt, không thể vượt ra ngoài phạm vi của lịch sử và khoa học. Đồng thời, khi gặp người Ấn Độ hoặc thảo luận với họ, chúng ta cũng có thể nhận thấy sự tự hào của họ với tôn giáo đáng kính yêu và nền văn hóa Vệ đà cùng những học thuyết thần thánh của họ.
Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu, có một số học giả đam mê với Vệ đà và Bà La Môn giáo (các nhà sử học, các nhà lãnh đạo và các nhà tư tưởng quốc gia Ấn Độ hiện đại) đều miêu tả Phật giáo như một phần của tín ngưỡng cổ xưa hơn Hindu và có thể được coi là một phân giáo, thời điểm đó được coi là tà giáo.
Một số nhà nghiên cứu Hindu – chuyên về Phật học hoặc tập trung vào nghiên cứu các vấn đề của Phật giáo hoặc các tác phẩm liên quan đến Phật giáo – đã kết luận rằng Phật giáo đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng Vệ đà từ nguồn gốc của nó và là một tôn giáo khác của Bà-la-môn giáo. Theo nghiên cứu khảo cổ, ít nhất, chúng ta không nên coi Phật giáo như một tà giáo đối nghịch với Ba La Môn giáo đang phổ biến, mà ngược lại, cần xem xét Phật giáo như một phương pháp thực nghiệm độc lập mang tính lịch sử – một phương pháp sống – và tạm gọi là một tôn giáo cổ xưa hơn Hindu.
Như đã được trình bày ở trên, lý thuyết hiện tại về nguồn gốc Phật giáo cho ta biết rằng quan điểm của Vệ đà và Bà La Môn đã ảnh hưởng và giữ độc quyền trong lĩnh vực hệ tư tưởng Ấn Độ và cả lĩnh vực nghiên cứu xã hội và lịch sử về Phật giáo đối với Bà La Môn giáo. Lịch sử nguồn gốc của Phật giáo, nói trong một câu, là chuyện ngoài đường phố của những trẻ Hindu mới lớn không quan tâm đến kiến thức lịch sử và khảo cổ tôn giáo Ấn Độ cổ xưa. Để làm rõ những đặc tính thật của Phật giáo, ta có thể đặt vấn đề đúng để xem Phật giáo có quan hệ thế nào với tín ngưỡng Bà La Môn giáo chính thống cổ đại vào thời kỳ ban đầu. Quan điểm của một trong những học giả Ấn nổi tiếng – ông S. Radhakrishnan, được coi là một quan điểm phổ biến tại Ấn Độ về mối quan hệ giữa Phật giáo và Bà La Môn giáo. Các điểm nổi bật trong quan điểm của Radhakrishnan có thể tóm tắt như sau: Đức Phật không cảm thấy rằng Ngài đang công bố một tôn giáo mới; Ngài sinh ra, lớn lên và từ trần như một Hindu; Ngài đã tuyên bố với sự nhấn mạnh mới về những lý tưởng cổ xưa của nền văn minh Indo – Aryan. Xu hướng ý thức hệ của nhà học giả Ấn Độ này về Phật giáo chủ yếu đề cập tới những diễn dịch mang tính truyền thống (Traditional Interpretation), duy vật (Materialistic Interpretation) và trào lưu chính thống (Fundamentalist Interpretation) của Phật giáo liên quan tới Bà La Môn giáo chính thống. Sự giải thích về truyền thống có nghĩa rằng Phật giáo vượt ra ngoài xu hướng chống đối nghi thức tôn giáo của các Brahmanas như những học giả Bà la môn đã nói. Thực tế là lịch sử Ấn Độ cổ đại ghi nhận rằng có hai hệ tư tưởng đối lập đó là: thế giới – khẳng định đại diện bởi các đạo sư Brahmanas theo truyền thống Vệ đà (Bà La Môn giáo) và thế giới – siêu việt (thế giới – phủ định) đại diện bởi các bậc ẩn sĩ khổ hạnh Sa môn thuộc truyền thống phi Vệ đà (Phật giáo).
Về mặt lịch sử, Phật giáo và Bà La Môn giáo là hai truyền thống khác biệt: Vệ đà và Sa môn. Vì vậy, không thích hợp để xây dựng lý thuyết về nguồn gốc Phật giáo dựa trên truyền thống Vệ đà.
Một số nhà học giả giải thích theo quan điểm duy vật, lấy cảm hứng từ lý thuyết của Karl Marx về duy vật lịch sử, để liên kết với tư duy khổ hạnh và triết lý Phật giáo – từ thời Đức Phật (624-544 trước Tây lịch) cho tới sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản và kinh doanh thương mại của tầng lớp trung lưu. Tuy nhiên, cách giải thích này hoàn toàn là giả thuyết và không có bằng chứng rõ ràng để chứng minh sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản trong tư tưởng của những người theo lý thuyết của Marx, cũng như không có bằng chứng để chứng minh tầng lớp trung lưu kiểm soát toàn bộ kinh tế – tiền tệ xã hội trong thế kỷ VII và VI trước Tây lịch. Hơn nữa, không thể cho rằng các lý tưởng của Bodhisattva được xác định bởi ý thức xã hội theo quá trình vật chất; thực tế, cách giải thích theo quan điểm duy vật này chỉ là một minh chứng cho sự thiếu hiểu biết trong nghiên cứu của họ.
Giải thích theo trào lưu chính thống có nghĩa rằng với số ít người theo đạo Hindu, Đức Phật được coi là người phá vỡ tín ngưỡng sùng bái thần tượng Bà la môn vì những yếu tố cơ bản nhất của Bà La Môn giáo thời kỳ tiền Phật giáo như tế lễ, hy sinh và học thuyết bốn giai cấp, những điều mà Đức Phật đã chỉ trích. Mặc dù Đức Phật thuyết pháp, kêu gọi lòng từ bi đối với muôn loài, phải giới hạnh thanh tịnh, phải tuệ tri rõ ràng về sự tồn tại hoặc không tồn tại của một tự ngã thường hằng, nhưng cuối cùng toàn bộ lâu đài Phật giáo cũng bị suy tàn và sụp đổ. Những lời phê bình và lên án Phật giáo không chỉ đơn thuần liên quan tới triết học và lịch sử của Phật giáo mà còn là khuynh hướng trào lưu chính thống đối với các tôn giáo khác. Phật giáo được xem là có liên quan đến Bà La Môn giáo như chủ trương của vài học giả Ấn Độ đại diện quan điểm truyền thống hiện đang nắm giữ độc quyền trong giới trí thức Ấn Độ. Đề tài này thường được đưa ra để thảo luận giữa các tôn giáo khác nhau, hoặc trong khuynh hướng ý thức hệ xã hội Ấn Độ và trong giới nghiên cứu của hàn lâm viên tôn giáo. Vài học giả Ấn Độ hiện đại, với niềm tin mạnh mẽ vào Vệ đà và Bà La Môn, đã thử làm một sự đồng hóa học thuyết của Phật giáo với Bà La Môn giáo. Điều nhấn mạnh ở đây là họ muốn chỉ ra rằng Phật giáo, bị ảnh hưởng sâu xa bởi tư tưởng Vệ đà, đã vượt ra khỏi xu hướng chống đối nghi thức của Brahmanas, nói cách khác, nó là một tà giáo hoặc một người theo dị giáo của Bà La Môn giáo. Phật giáo và Ấn Độ giáo được xem như là một trong quan điểm của người Ấn bình thường lẫn người Ấn học thức uyên bác, nhưng thực tế, Phật giáo và Ấn Độ giáo là hai hệ thống tôn giáo hoàn toàn khác nhau với một số điểm giống nhau về lý thuyết và thực hành của cả hai.
Nhà Ấn Độ học nổi tiếng P.V. Kane đã phát biểu sai khi cho rằng: “Đức Phật là một nhà cải cách lớn của đạo Hindu. Ngài không có cảm giác hoặc tuyên bố rằng Ngài đang thành lập một tôn giáo mới, mà không từ bỏ đạo Hindu”. Tuy nhiên, khi nói về mối liên hệ giữa Phật giáo và đạo Ấn Độ, chúng ta cần khảo sát kỹ thuật ngữ “Hindu” từ góc độ lịch sử, ngôn ngữ và khảo cổ để có ích.
Quan hệ giữa Phật giáo và Ấn Độ giáo cần được xem xét từ quan điểm lịch sử và khoa học. Nghiên cứu Phật giáo từ góc độ của Hindu là việc nghiên cứu về Ấn Độ giáo chứ không phải là về Phật giáo. Việc sử dụng tôn giáo Hindu hiện đại để hỗ trợ quan điểm là sai lầm, vì Đức Phật không bao giờ dạy con đường của bậc thánh Hindu cổ xưa và không công bố một tôn giáo mới. Trong tuyên bố của Ngài, từ “Hindu” không xuất hiện và không đề cập đến các thánh nhân Vệ đà, các nhà tiên tri Indo-Aryan hoặc Brahmanas là các đạo sư hướng dẫn Ngài tu tập.
Về mặt ngôn ngữ, thuật ngữ “Hindu” là từ tiếng ngoại lai có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư và Ả-rập, và đại diện cho các hình thức tôn giáo Bà La Môn và Ấn Độ thời trung cổ. Từ “Hinduism” được sử dụng trong các truyền thống tôn giáo Ấn Độ, thường được sử dụng để phân biệt với đạo Cơ Đốc và Hồi giáo tại Ấn Độ. Tuy nhiên, trong thời kỳ tiền Puran Bà La Môn giáo của Vệ đà và Upanisad, chúng ta không thể sử dụng từ “Hinduism”, mặc dù đạo Hindu thời trung cổ đã lập nền tảng và mở rộng tới phạm vi nào đó trong tôn giáo Vệ đà. Tương tự như đạo Do Thái trước sự giáng sinh của Jesus Christ không thể được gọi là đạo Thiên Chúa, mặc dù đạo Thiên Chúa đã được thành lập trước đạo Do Thái.
Về khía cạnh khảo cổ học, không có bất kỳ sự xuất hiện của từ “Hindu” trong bất kỳ nguồn tài liệu khảo cổ hoặc văn học cổ đại Ấn Độ, và không được phát hiện từ thời Alberuni (khoảng 1030 Tây lịch). Có thể rằng, ông ta đầu tiên đề cập đến người Ấn Độ phi Hồi giáo là “Hindus” có nghĩa là “Những người không theo đạo”. Thuật ngữ “Hindu”, một biệt danh của “Sindhu”, đầu tiên được sử dụng bởi người Ba Tư và xuất hiện cùng với từ “Gadara”, một hình thức của “Gandhara” trong bia ký của vua Darius xứ Iran. Ở đây, nó được sử dụng để biểu thị cho một dân tộc hoặc một đất nước sống dọc theo sông Sindhu. Trong thời cổ đại của người Ba Tư, “Sa” được phát âm như “Ha”; “Sindhu” được gọi là “Hindu” từ đó tiếng Hy Lạp biến nó thành “Sintos” hoặc “Indos”, xuất phát từ tiếng Ba Tư và Ả-rập là Hindu và Hindustan; trong khi tiếng Anh gọi là Indian và India.
Như đã thấy ở trên, Phật giáo và Ấn Độ giáo khác nhau hoàn toàn về quan điểm lịch sử và ngôn ngữ cổ, mặc dù có một số điểm giống nhau giữa Phật giáo và một số giáo lý của Ấn Độ giáo. Có bằng chứng mạnh mẽ cho thấy sự ảnh hưởng của Phật giáo đến ngôn ngữ và học thuyết của Ấn Độ giáo. Vì vậy, chúng ta cần thừa nhận rằng Phật giáo không thể được coi là một định nghĩa đơn giản của Ấn Độ giáo (mặc dù sau này họ đã sử dụng một số thuật ngữ và giáo lý quan trọng từ Phật giáo).
Chúng ta có thể kết luận rằng không công bằng khi coi Đức Phật là một “Hindu” hoặc một nhà cải cách lớn của đạo Hindu, vì trong thời của Ngài không có sự hiện diện của đạo Ấn Độ.
Từ thảo luận ở trên, ta có thể suy ra rằng các lý thuyết hiện nay về nguồn gốc của Phật giáo và mối quan hệ của nó với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo được đặc biệt chú trọng bởi các học giả Ấn Độ hiện đại có quan điểm Vệ đà và Bà La Môn, và không hoàn toàn chính xác. Trên thực tế, vì hiểu biết về lịch sử, Phật giáo đã trở thành một tôn giáo độc lập và hoàn toàn riêng biệt tại Ấn Độ vào thế kỷ VI trước công nguyên, là một phong trào chống lại Vệ đà và Bà la môn (truyền thống Sa môn). Ngược lại, Đức Phật đã chỉ trích các học thuyết về bốn giai cấp và sự hy sinh tế lễ trong cả Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo, mặc dù chúng vẫn còn tồn tại trong các cộng đồng đạo Hindu.
Không thể tiếp cận nghiên cứu tôn giáo chỉ từ một quan điểm ý thức riêng biệt hoặc do sự ảnh hưởng của niềm tin hoặc tình cảm đặc biệt. Nếu vậy, quan điểm của chúng ta sẽ bị hạn chế dù đang thực hiện một nhiệm vụ quan trọng về nghiên cứu so sánh các tôn giáo.
Việc ủng hộ quan điểm Hindu hiện đại rằng Đức Phật đã theo con đường của thánh nhân “Hindu” cổ xưa và chứng tỏ Ngài không đưa ra một tôn giáo mới là hoàn toàn sai lầm.
Tìm hiểu thêm: Giới thiệu về đạo Bà-La-Môn trong đạo Hindu (Ấn Độ giáo)
Hơn nữa, không có sự phù hợp hoặc đồng ý về quan điểm cơ bản giữa Bà La Môn giáo và Phật giáo thời đầu; hai truyền thống tôn giáo này có những cơ sở khác nhau trong thời kỳ Vệ đà tiền sử và thời Đức Phật.
Như đã đề cập trước đó về văn hóa và khảo cổ học, từ “Hindu” có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư và Ả-rập trong thời kỳ Ấn Độ trung cổ. Vì vậy, không có lý do chính đáng để sử dụng từ “Hindu” và “Hinduism” trong bối cảnh lịch sử của Đức Phật Thích Ca. Mệnh đề đạo “Hindu” liên quan đến Ấn Độ thời tiền Hồi giáo cũng là vô nghĩa và sai lạc. Đức Phật không phải là một nhà Hindu hoặc một nhà cải cách lớn của Ấn Độ giáo, vì không có đạo “Hindu” trong thời gian của Ngài, mà chỉ có Bà La Môn giáo nguyên thủy và Vệ đà. Tuy nhiên, lời dạy của Đức Phật đã cải tiến nhiều phương pháp tu tập không hoàn hảo của Vệ đà, nhưng Ngài không bao giờ tuyên bố mình là một nhà cải cách. Không có kinh điển Hindu hoặc Bà La Môn nào đề cập đến Đức Phật như một nhà cải cách.
Các tài liệu tham khảo bao gồm: 1. A History of Buddhist Philosophy của Kalupahana, D.J., Được xuất bản bởi Đại học Hawaii Press vào năm 1992. 2. A comparative study of Buddhism and Hinduism của Joshi, L.M., Được đăng trên Tạp chí Văn minh Ấn Độ, số 6, No.2- (Mùa hè), 15-39, Sri Lanka vào năm 1987. 3. Dialogues of the Buddha của Kane, P.V., Được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, volume 2, No.1 (Mùa xuân), 23-35, Ấn Độ vào năm 1994. 4. Ascetics of prehistoric Indian and Indus Civilization của Rhys Davids, T.W., Được đăng trên Tạp chí Indology, volume 14, No.1 (Mùa đông), 15-48, London vào năm 1936. (Trích từ Tạp chí Quốc tế Ấn Độ về Nghiên cứu Phật giáo, số 4, 2004, Varanasi; Aditya Shyam Trust, 2003, tr.3-7).
CHENG JIANHUAGIỚI HƯƠNG chuyển ngữ.
Trả lời