1. Đặt vấn đề
Theo Lời Phật tìm hiểu, Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương được thành lập vào năm 1849 và đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được thành lập vào năm 1867 là hai tôn giáo bản địa ở Nam Bộ trong triều đại Nguyễn. Hai đạo này không chỉ là tôn giáo mà còn là những phong trào yêu nước và khẩn hoang có tầm ảnh hưởng lớn. Mặc dù có nhiều điểm khác biệt về hình thức, nhưng những tư tưởng cốt lõi của hai đạo này khá giống nhau, đều dựa trên nền tảng Tứ ân (ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân Tam Bảo, ân đồng bào nhơn loại). Ngoài ra, việc thờ trần điều (vải đỏ sẫm) cũng là một đặc điểm nhận dạng của hai tôn giáo này.
Tuy nhiên, trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa còn có một hình thức thờ cúng tương đồng mà cho đến nay chưa được nhiều công trình nghiên cứu quan tâm, đó là Ngũ Công Vương Phật hay Chư Vị Năm Ông. Nếu đối với giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương, thờ cúng Năm Ông chỉ được biết đến qua một số tài liệu, thì đối với giáo hệ Tứ Ân Hiếu Nghĩa, tín ngưỡng này vẫn được thực hành ngày nay. Bài viết này sẽ giới thiệu một số đặc điểm của tục thờ cúng Năm Ông trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa như nguồn gốc đối tượng tín ngưỡng, hình thức thực hành tín ngưỡng và những vấn đề liên quan chưa được đề cập trước đây.
2. Nguồn gốc đối tượng tín ngưỡng.
Trong đạo Phật, việc thờ cúng năm vị Phật được các tín đồ Phật tử theo hai truyền thống Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Mật tông, tuy nhiên theo hai hình thức khác nhau.
Trong bộ kinh Pali của Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), đề cập đến năm vị Phật tiêu biểu từ quá khứ đến tương lai, bao gồm Kakusandha (Phật Câu Lưu Tôn), Konagamana (Phật Câu Na Hàm Mâu Ni), Kassapa (Phật Ca Diếp), Gotama (Phật Thích Ca Mâu Ni) và Metteyya (Phật Di Lặc). Theo con đường hoằng pháp Nam truyền, các nước Myanmar, Thái Lan, Cambodia… Thường thờ cúng năm vị Phật này bằng tranh vẽ hoặc thậm chí là bùa chú do các giáo sư ngoại đạo tạo ra.
Trong khi đó, năm vị Phật trong Phật giáo Tạng truyền hoàn toàn không được đề cập trong kinh văn Pali nguyên thủy. Tuy nhiên, Mật tông lại đưa ra hình tượng năm vị Phật tối cao của Kim Cang thừa, được dịch sang tiếng Trung là Ngũ Trí Như Lai hay Ngũ Phương Phật bao gồm: Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairochana), Phật A Súc Bệ (Akshobhya), Phật Bảo Sanh (Ratnasambhava), Phật A Di Đà (Amitabha) và Phật Bất Không Thành Tựu (Amoghasiddhi). Đối với người tu Mật tông, năm vị Phật được coi là bổn tôn của hành giả và cũng là biểu tượng cho năm tánh cách của con người.
Tuy nhiên, đối tượng tôn thờ mà tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa gọi là Chư Vị Năm Ông hay Ngũ Công Vương Phật lại không có liên quan đến một trong hai hình thức tôn thờ năm vị Phật từ hai truyền thống Phật giáo đã nêu trên. Mỹ hiệu của Năm Ông (có khi được kèm theo ngũ phương) bao gồm:
– (Đông Phương Thanh Đế) Chí Công Vương Phật.
– (Tây Phương Bạch Đế) Lãng Công Vương Phật.
– (Nam Phương Xích Đế) Bửu Công Vương Phật.
– (Bắc Phương Hắc Đế) Hóa Công Vương Phật.
– (Trung Ương Huỳnh Đế) Đường Công Vương Phật.
Vậy Ngũ Công Vương Phật là ai?
Thực ra, mặc dù mang danh xưng là Phật nhưng năm vị nầy lại không phải nhân vật Phật giáo, mà là năm vị tướng của Trung Hoa thời Tam Quốc được người đời sau tôn thờ gồm: Quan Công, Quan Bình, Châu Xương, Trương Tiên, Vương Thiên Quân. Năm vị tướng được xem là biểu tượng của trung nghĩa, nên việc thờ phượng các ông còn mang ý nghĩa giáo dục về lòng trung nghĩa. Tục thờ năm vị tướng nầy đã có từ lâu ở Trung Hoa, nhưng tương truyền mãi đến năm Càn Long thứ 46 (1781) triều Thanh mới chính thức có danh xưng Ngũ Công Vương Phật xuất hiện. Khi thể hiện bằng tranh, Quan Công thường ngồi ở giữa, hai bên có Quan Bình và Châu Xương, thêm Trương Tiên đứng sau Quan Bình và Vương Thiên Quân đứng sau Châu Xương.
Quan Công, còn được biết đến với tên gọi Quan Vũ hay tự Vân Trường, đã kết nghĩa anh em với Lưu Bị và Trương Phi khi còn trẻ. Sau đó, ông theo phò Lưu Bị và có công lớn trong việc dựng nghiệp cho nhà Thục Hán. Ông nổi tiếng với đức tánh trung nghĩa và được người đời sau tôn là Quan Thánh Đế Quân hay Hiệp Thiên Đại Đế. Theo Tạ Chí Đại Trường [2014: 293-294], người Hoa thường đọc nhiều tiểu thuyết hơn kinh truyện và tin nhân vật tiểu thuyết lịch sử hơn là trong sử kí do tính chất lưu vong và thương nhân ít học (so với nho sĩ khoa bảng). Thần Quan Đế của họ được lấy cảm hứng từ Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, chứ không phải từ Tam quốc chí của Trần Thọ và mang tính khu vực lưu tán (Nam Trung Quốc).
Thật đúng như vậy, Quan Bình ban đầu được cho là con ruột của Quan Vũ, nhưng trong tiểu thuyết thì nhân vật này chỉ là con nuôi. Trong khi đó, Châu Xương hoàn toàn là một nhân vật tưởng tượng, bắt nguồn từ một tướng cướp, sau đó trở thành phò của Quan Vũ. Do ảnh hưởng của tiểu thuyết, trong văn hóa dân gian Trung Hoa, Quan Bình được tôn là Quan Thái tử và được gọi là Cửu Thiên Uy Linh Hiển Hóa Đại Thiên Tôn, còn Châu Xương được gọi là Cương Trực Trung Dũng Đại Thiên Tôn.
Trương Tiên và Vương Thiên Quân cũng trở thành các vị thần trong Đạo giáo. Trương Tiên được tôn là Linh Ứng Trương Tôn Đại Đế Thất Khúc Dục Thánh Thiên Tôn, là vị thần bảo vệ cho sản phụ và trẻ sơ sinh. Vương Thiên Quân được người Trung Hoa cho là Thiên Lôi (Lôi Công) và tôn là Thái Ất Lôi Thinh Ứng Hóa Thiên Tôn.
Khi người Hoa di cư sang Việt Nam, họ mang theo tín ngưỡng của Ngũ Công Vương Phật. Tục thờ cúng này dần trở nên phổ biến và được người Việt chấp nhận. Nhiều gia đình Việt thờ Năm Ông như một thần độ mạng cho gia chủ, thường được thờ phượng dưới hình thức tranh kiếng, đặt trong một trang thờ nhỏ treo trên vách nhà. Nhiều nơi ở Nam Bộ sản xuất tranh kiếng và chế tác tranh thờ Năm Ông, phía trên tấm tranh có chữ Hán “Ngũ Công Vương Phật”. Tại núi Cấm (tỉnh An Giang) có miếu Năm Ông thờ phượng theo cách này. Ngôi miếu được coi là một trong những địa điểm linh thiêng trên núi Cấm, đặc biệt đối với giới bùa phép và đồng bóng [Tư liệu điền dã 2016].
3. Đặc điểm thực hành tín ngưỡng.
3.1. Bửu Sơn Kỳ Hương.
Về đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, chúng ta chưa thấy bất kỳ lời dạy chính thức nào từ Đức Phật Thầy Tây An (giáo chủ Đoàn Minh Huyên) hoặc các nhân sĩ về việc thờ Năm Ông. Khác với Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương tập trung vào việc thờ cúng đơn giản hơn. Tuy nhiên, thông qua một số tài liệu, chúng ta có thể tìm thấy những thông tin đáng chú ý.
Vào ngày đầu tiên của năm 1851, Đức Phật Thầy Tây An đã giao cho đại đệ tử của mình, Quản cơ Trần Văn Thành, nhiệm vụ làm năm cây thẻ để ngăn chặn sự xâm phạm đất đai của kẻ ác. Các cây được làm từ gỗ lào táo, được đẽo thành hình búp sen và khắc bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”, sau đó được cắm ở bốn hướng và một ở trung tâm. Mỗi cây thẻ đều mang tên của một danh hiệu của Ngũ Công Vương Phật nói trên.
– Đông Phương Thanh Đế (nay ở xã Cần Đăng, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang).
– Tây Phương Bạch Đế (nay ở xã Vĩnh Tế, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang).
– Nam Phương Xích Đế (nay ở xã Vĩnh Điều, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang).
– Bắc Phương Hắc Đế (nay ở xã Vĩnh Thạnh Trung, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang).
– Trung Ương Huỳnh Đế (nay ở xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang).
Người theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương thường gọi Ông Thẻ hoặc Quan Thẻ và xây dựng miếu thờ tại những địa điểm được đề cập trên, cho đến hiện nay vẫn còn tồn tại.
Điều thứ hai, trong một tác phẩm thơ Nôm cổ không rõ tác giả, kể về sự tích Đức Phật Thầy, nhiều lần đề cập đến phong tục thờ Năm Ông. Hiện nay, tác phẩm này có hai bản là Giảng Năm Ông do Nguyễn Hữu Hiệp thu thập và công bố vào năm 1974, và Kinh Năm Ông do Nguyễn Văn Sâm thu thập tại An Giang vào năm 2006 và công bố vào năm 2009. Hai bản này có nhiều khác biệt, tuy nhiên chúng ta vẫn có thể dễ dàng nhận thấy chúng chỉ là hai phiên bản khác nhau của cùng một tác phẩm. Dưới đây là một số câu quan trọng được trích dẫn.
+ ”Bao nhiêu thói dữ đừng màng.
Đêm ngày niệm Phật kỉnh thờ Năm Ông”.
+ ”Kỉnh tin Năm Ông Ngũ Phương.
Điều lành thời giữ chớ mong thói tà”.
+ ”Đêm ngày tin tưởng Năm Ông.
Họa ra đặng thoát khỏi chưng nạn này”.
[Nguyễn Hữu Hiệp 1974: 84-92].
Sư Vãi Bán Khoai là một nhân vật truyền đạo ở Nam Kỳ trong khoảng thời gian 1901 – 1902, tuy không rõ lai lịch trước và sau đó, nhưng vẫn được người theo đạo coi là một trong những kế tục của dòng chảy Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông để lại bộ Sấm giảng gồm 11 quyển, trong đó quyển thứ 9 có đoạn hướng dẫn cách thờ phượng Năm Ông như sau:.
“Trong nhà có nhiều bàn thờ tôn vinh các thần Cửu Huyền Thất Tổ, ngoài trời còn thờ Năm Ông. Thường xuyên đốt hương vào đêm không được bỏ qua. Thời xưa có hai thần chép biên.”
[Sư Vãi Bán Khoai 1949: 99].
Vào thứ tư hàng tuần, tại đình Tòng Sơn ở xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, du khách có thể chiêm ngưỡng bàn thờ Chư Vị Năm Ông. Tòng Sơn là quê hương của Đức Phật Thầy và ngôi đình này là nơi ông đầu tiên tá túc khi trở về làng vào năm 1849 sau nhiều năm lưu lạc. Theo truyền thuyết dân gian, khi ông ở lại đình một thời gian, ông rời đi và để lại một cây cờ ngũ sắc được gọi là “cây thẻ Năm Ông”. Khi đó, dịch bệnh đang diễn ra và dân chúng đã kéo đến đình để thỉnh vải cờ để uống chữa bệnh. Theo câu chuyện, người ta đến đình thỉnh cờ và sau vài ngày, cờ đã hết, nhưng họ đã đem cán cờ về thiêu và hòa với nước để uống, và uống đến hết. [Dật Sĩ & Nguyễn Văn Hầu 1972: 67].
3.2. Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
Về đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Năm Ông được coi là đối tượng tín ngưỡng chính thức. Tín đồ thường có bàn thờ Năm Ông ở phía trước nhà, đối diện với bàn thờ chính. Trên bàn thờ thường có tấm vải hoặc giấy màu đỏ với chữ Hán “Ngũ Công Vương Phật” và được gọi là “Chư Vị Năm Ông”. Bàn thờ này thường được đặt ở giữa mặt tiền ngôi nhà, do đó nhà của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa thường không có cửa ở giữa mà chỉ có cửa ở hai bên, giữa sẽ là vách ngăn che bàn thờ Năm Ông. Tuy nhiên, tập quán này hiện nay đã không còn được duy trì nhiều.
Tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa khi thờ cúng Năm Ông có những quy tắc về cách sử dụng từ ngữ. Họ không sử dụng từ “công” (trong danh hiệu Ngũ Công Vương Phật) mà thay bằng “cung” hoặc “cuông”, trong trường hợp một mảnh đất công thì gọi là “một vuông đất”. Tương tự, không sử dụng từ “đường” (trong danh hiệu Đường Công Vương Phật) mà thay bằng “ngọt” để chỉ gia vị đường và “lộ” để chỉ đường đi.
Niềm tin Năm Ông đã được ghi nhận chính thức trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa từ thời Đức Bổn Sư (giáo chủ Ngô Lợi) và là một trong những phong tục sớm nhất. Năm 1878, ông đã tổ chức khởi nghĩa chống lại Pháp tại Cai Lậy (hiện nay là tỉnh Tiền Giang) và rao giảng về quyền lực của Năm Ông. Sau đó, điều này đã được Nguyễn Liên Phong [1909: 68] thuật lại trong Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca.
“Sau khi thêm Ong, Khả, Roi và lừng danh, mây ngựa chuối trải dài và cùng nhau khởi hành. Tuy nhiên, không ai tin vào phép lạ của Năm Ông và bùa linh không thể giúp súng bắn được gì.”
Sau hơn nửa thế kỷ, hình thức này được tái hiện trong cuộc kháng chiến chống Pháp của Ba Quốc (tên thật là Lâm Văn Quốc) tại Tân Châu (nay thuộc tỉnh An Giang) vào năm 1939. Ba Quốc là người biết võ nghệ và có học về bùa ngãi. Năm 1928, ông thành lập một am tu hành ở Tân Châu. Theo mô tả của Nguyễn Văn Kiềm [1966], trong am thờ của Ba Quốc có bốn bàn thờ, gồm Quan Công, Thần, Thánh và Chư Vị Năm Ông, được sắp xếp thành một hình thức thờ phượng đặc trưng của Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
4. Nghi vấn liên quan đến Thiên Địa hội.
Thiên Địa hội là một tổ chức kín của người Trung Quốc được thành lập vào năm 1674, trong triều đại Khang Hy thứ 13 của nhà Thanh, với mục đích chống lại chính quyền Thanh phục Minh. Đông đảo người Trung Quốc, đặc biệt là từ khu vực phía Nam, đã di cư đến Việt Nam vào thế kỷ XVII – XVIII vì lý do chính trị, không hài lòng với sự quản lý của người Mãn và đưa theo Thiên Địa hội trong hành trình di cư. Theo Sơn Nam [1997: 94], Emile Puech – Chủ tỉnh Hà Tiên (người từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa năm 1873 tại Long Xuyên) cho rằng Thiên Địa hội đã có mặt ở Nam Kỳ trước khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây. Sau đó, người Việt đã tham gia vào Thiên Địa hội và hoan nghênh lý tưởng “phục Nam bài Pháp”. Mục đích chính của họ là chống lại sự thống trị của Pháp và tái thiết lập chế độ quân chủ.
Sau khi cuộc khởi nghĩa tấn công vào Khâm lớn Sài Gòn năm 1916 để giải cứu Phan Xích Long – một thủ lãnh của Hội Kín lúc đó, phía Pháp đã phát hiện một lá cờ có ghi bốn chữ “Thánh Minh Vương Phật” từ trên xuống và bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương” ở bốn góc [Nguyễn Thanh Tiến 2005: 46]. Chúng ta biết rằng, trước đây, cộng đồng tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã quen thuộc với bốn câu thần chú được truyền miệng.
“Chữ Bửu là biểu tượng của Phật Vương, Chữ Sơn Phật Thầy tin rằng mang nó sẽ được thêm phước đức. Chữ Kỳ là hiệu của Bổn Sư. Chữ Hương Phật Trùm kết hợp bốn chữ để tạo ra ý nghĩa.”
Nếu Đức Phật Thầy (Đoàn Minh Huyên), Đức Bổn Sư (Ngô Lợi), Đức Phật Trùm (Tà Pônh) là những nhân vật thực tế trong lịch sử và tiếp nối truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương, thì Đức Phật Vương lại khá bí ẩn. Liệu Đức Phật Vương có liên quan gì đến Ngũ Công Vương Phật và Thánh Minh Vương Phật? Một ngày, tại chùa Tam Bửu (thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) thuộc tổ đình của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, có ngôi đình thờ Đức Phật Vương, bên trong là một bảng gỗ lớn có ghi bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”. Sơn Nam [1971: 55] cho rằng: “Năm Ông, còn được gọi là Chư Vị Năm Ông, bao gồm ông Quan Đế, Thái tử, Ông Châu, Trương Tiên và Linh Quan. […] Chùa thờ Năm Ông có thể là trụ sở bí mật của Thiên Địa hội”.
Khi tìm hiểu về văn bản Kinh / Giảng Năm Ông như đã giới thiệu ở trên, chúng tôi chú ý đến câu: ”Cờ đen vàng vải khá may / Cắm ngay giữa cửa khuyên trai đừng lầm” [Nguyễn Hữu Hiệp 1974: 84], hay: ”Cờ đen vải trắng bìa vàng / Treo ngay giữa cửa đêm khuya giữ gìn” [Nguyễn Văn Sâm 2009: 13]. Nếu đây chỉ là một bộ kinh giảng dành cho tín đồ tu hành, thì tại sao lại có việc may lá cờ và treo giữa cửa? Có phải đó là tín hiệu của một tổ chức?
Tương tự, Huờn (Hoàn) Sanh kinh là một bản kinh viết bằng chữ Nôm từ thời Đức Bổn Sư mới mở đạo, trong đó có những đoạn cũng rất đáng chú ý: ”Huờn sanh trần thế, lập kế Thánh vương, thân thể nhiễu nhương, người đương thay đổi, phép trời làm nổi, thân thể nghiêm trang, hỡi kíp lo toan, thay đời lập trị, Phật trời hiệp nghị, có một hội nầy, có tớ có thầy, trang nghiêm tiên kiểng, chọn xây lựa tuyển, tống xuống học hành, công sự đã thành, thiên cơ sở định”. Đoạn kinh nói về việc ”thay đổi đời” theo thuyết tận thế, khi đó đời Hạ nguồn kết thúc và hội Long Hoa mở ra để lập đời mới Thượng nguồn. Tuy nhiên, nội dung đoạn kinh có thể liên tưởng đến hoạt động chống Pháp, những nghĩa sĩ ”lập kế Thánh vương” đánh đuổi giặc ngoại xâm để ”thay đổi cuộc sống trần thế”.
Hơn nữa, khi tham gia đạo, người theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa sẽ được cấp một tờ lòng phái, tương tự như một giấy chứng nhận. Tại Thiên Địa hội, người tham gia cũng được cấp một tờ hồng tánh để chứng nhận việc gia nhập hội. Mặc dù quy trình gia nhập Thiên Địa hội không giống như Tứ Ân Hiếu Nghĩa, nhưng tờ lòng phái lại có nhiều điểm tương đồng. [Đinh Văn Hạnh 1999: 78].
5. Kết luận.
Tục thờ cúng Ngũ Công Vương Phật – Chư Vị Năm Ông trong tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa là một hiện tượng chưa được nghiên cứu kỹ. Tục thờ này bắt nguồn từ văn hóa Trung Hoa và được người Việt tiếp nhận trong gia đình, coi Năm Ông như thần bảo vệ cho gia chủ. Sau đó, Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã đưa Năm Ông vào hệ thống thờ tự của họ như một tín ngưỡng quan trọng.
Hiện tượng này không chỉ phản ánh sự giao thoa văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc trên địa bàn, mà còn trong bối cảnh Nam Kỳ là thuộc địa, xu hướng tôn trọng lý tưởng trung nghĩa trở nên phổ biến hơn bao giờ hết trong giới quý tộc. Do đó, chúng tôi cho rằng việc Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa chọn Năm Ông để thờ cúng không phải là điều bất thường. Ngoài ra, với những bằng chứng thuyết phục về mối quan hệ giữa hai tôn giáo này với Thiên Địa hội, việc thờ cúng Năm Ông có thể còn liên quan đến các hoạt động bí mật trong phong trào kháng Pháp thời bấy giờ.
Với kiến thức và khả năng có hạn cùng với nguồn tư liệu ít ỏi, chúng tôi chỉ có thể phân tích phong tục thờ cúng Năm Ông như một hình thức tín ngưỡng – một khía cạnh trong văn hóa tôn giáo. Những vấn đề về lịch sử chỉ được đề cập như một sự gợi mở, hy vọng sẽ được các nhà nghiên cứu nghiên cứu thêm.
(Bài được đăng trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Triết lý nhân sinh của người dân miền Nam, Tập 1: Văn hóa nhận thức và tôn giáo tín ngưỡng, Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ, 2018 & cuốn sách Dấu ấn châu Á, Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM, 2021).
TÀI LIỆU THAM KHẢO:.
1. Dật Sĩ & Nguyễn Văn Hầu (1972), Thất Sơn mầu nhiệm, tái bản, Nxb Từ Tâm.
2. Đinh Văn Hạnh (1999), Đạo Tứ Ấn Hiếu Nghĩa của người Việt Nam Bộ (1867-1975), Nxb Trẻ.
3. Nguyễn Hữu Hiệp (1974), Tiền giảng Đức Phật Thầy Tây An, Nxb Diễm Chi.
4. Nguyễn Liên Phong (1909), Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, Nxb Phát Toán.
5. Nguyễn Văn Kiềm (1966), Tân Châu (1870 – 1964), Tác giả tự xuất bản.
6. Nguyễn Văn Sâm (2009), Kinh Năm Ông, Bản điện tử.
7. Sơn Nam (1971), Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thiên Địa hội và cuộc Minh tân, Nxb Phù Sa.
8. Sơn Nam (1997), Cá tính Miền Nam, Nxb Trẻ.
9. Nguyễn Thanh Tiến (2005), Tổ chức bí mật tại Nam Kỳ vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, Nghiên cứu Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Sư Vãi Bán Khoai (1949), Sấm giảng người đời, Bản photocopy.
11. Tạ Chí Đại Trường (2014), Thần, người và đất Việt, tái bản, Nxb Tri thức.
Trả lời