Ngô Văn Chiêu – Tiểu sử người sáng lập đạo Cao Đài

Theo Lời Phật tìm hiểu, Đức Ngô Minh Chiêu là người đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài Thượng Đế. Ông là trưởng nhánh Đạo của Cao Đài giáo, thuộc Nội giáo Tâm truyền, chuyên về việc tu luyện đơn giản (còn được gọi là Chiếm Minh). Ngài đã đạt được Đạo và trở thành Đại Tiên, để lại nhiều sự kính mến và ngưỡng vọng. Các Hội Thánh nhánh Phổ độ, nhiều nơi cũng thờ Ngài trên Thiên Bàn.

Bài viết này mô tả về con người và nhân cách sống của Ngài Ngô Văn Chiêu từ khi còn trẻ, bao gồm cả thời gian Ngài chưa biết đến Đạo theo giáo lý Cao Đài, đó là phần Nhơn đạo của Ngài. Chủ ý cho thấy Ngài Ngô cũng sinh ra và lớn lên như một con người bình thường, và cuối cùng Ngài trở thành một nhân vật đặc biệt.

Là một cá nhân

Ông Ngô Văn Chiêu sinh ngày 7 tháng 1 năm 1878 tại Chợ Lớn. Thời thơ ấu của ông khá khó khăn. Gia đình nghèo, cuộc sống không ổn định, nên đến ngày 28-02-1878 mới đăng ký sinh ông tại làng Điều Hoà, tổng Thuận Trị, Mỹ Tho. Khi ông 6 tuổi, cha mẹ ông đi làm ăn xa, phải nhờ người cô ruột tên Ngô Thị Đây chăm sóc nuôi dưỡng ông.

Là Một Con Người, chúng ta có khả năng suy nghĩ, cảm nhận, tương tác và học hỏi từ những trải nghiệm trong cuộc sống, đồng thời cũng có trách nhiệm với bản thân và xã hội.

Khi Ngài Ngô 12 tuổi, Ngài quyết tâm tự tìm được nhà ông Đốc phủ Lê Công Xũng (1853 – 1920), người có một mối quen biết nào đó với gia đình Ngài, để nhờ chỉ bảo và giới thiệu vào học nội trú trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu (trường Collège de My Tho trước đây). Sau đó vài năm, Ngài lên Sài Gòn học tiếp tại trường Lê Quý Đôn (trường Chasseloup Laubat trước đây) và đạt bằng Thành Chung khi 21 tuổi. Vào ngày 23-3-1899, Ngài được bổ nhiệm vào làm việc tại Sở Tân Đáo, Sài Gòn.

Ngay khi có công việc, Ngài Ngô đã nhận được những tháng lương đầu tiên và ngay lập tức viết thơ mời cha mẹ về Sài Gòn để Ngài chăm sóc cho họ, không phải làm công khổ. Ngài thuê một ngôi nhà gần nơi làm việc để tiện đi về chăm sóc cho cha mẹ. Hiếu thảo là nhiệm vụ của con cái nhưng đôi khi xa mặt hay cách lòng, từ nhỏ Ngài đã không sống gần cha mẹ, hầu hết đơn thân tự lập, lòng thương cha mẹ của Ngài cũng không được nhiều người hiểu.

Tìm hiểu thêm: Đạo Cao Đài là gì? Đạo Cao Đài Tây Ninh và những mới lạ

Ông Ngô Minh Chiêu cũng đã từng kết hôn.

Giống như nhiều người khác thời đó, sau khi thành công (đậu Thành Chung), ông tính đến việc lập gia đình. Ông Đốc phủ Xứng muốn đưa con gái mình lấy Ngài, nhưng sau khi xét đến bản chất của hai gia đình và với đức tính an phận, Ngài Ngô đã không dám đồng ý với đề nghị đó. Lúc đó, việc từ chối có thể khó khăn vì Ngài từng nhận đức ơn trọng của ông Đốc phủ Xứng.

Theo nhận xét của bà Trương Phụng Hảo, nghệ sĩ nhân dân Phùng Há, người từng là vợ của ông Lê Công Phước (Phước George, Bạch Công Tử), ông Đốc phủ Xũng có hai con gái là Lê Thị Quyên (Madeleine, con thứ nhất) và Marie (con nuôi); còn Phước George là con của ông với vợ sau.

Về vấn đề này, theo quan điểm của chúng tôi, khi quyết định như vậy, Ngài Ngô đã tránh được việc phải chịu trách nhiệm cho một phần tài sản của ông Đốc phủ Xũng (mà theo lời bà Phùng Há, tài sản của ông Đốc phủ bắt đầu từ việc lạm dụng quyền lực).

Rồi Ngài Ngô lập gia đình với bà Bùi Thị Thân (buôn bán tại chợ Mỹ Tho).

Ông Đốc phủ Xũng đã nhận ra bản chất tốt đẹp của chàng trai họ Ngô, vì vậy ông muốn chọn anh ta làm con rể. Tuy nhiên, ông không tìm được một người con rể đáng quý.

Đối với gia đình, bạn bè, Ngài đã có hành động đầy tình yêu thương. Điều này được thể hiện qua lòng trung thành của những người bạn dành cho Ngài. Vào năm 1920, khi Ngài chuyển công tác từ Tân An sang Hà Tiên, nhiều người đã viết thơ tiễn biệt với sự tiếc nuối. Tôi xin trích một đoạn bài chúc của hai ông Trần Phong Sắc và Cao Văn Lỏi như sau:

”Nay Trưởng Tòa đãi tiệc,.

Đưa quan Huyện lên đường.

Nhóm bạn vàng đủ mặt hiền lương,.

Dùng lời chúc đưa người phước đức.

Từ thí đỗ ông lên chức quan, [Năm 1917, Ông Ngô Văn Chiêu đỗ kỳ thi Tri Huyện khi đang công tác tại Tòa Hành Chánh Tân An (từ ngày 01-5-1909)].

So tánh thường người ở trung dung.

Tổng làng cảm cảnh không cùng,.

Há phải quan yêu thì bạn ghét,.

Dân chúng kính thương chi xiết,.

Thiệt là gần mến lại xa trông.

Tánh thanh liêm giữ mực chí công,.

Tính trung thực và tôn trọng lời hứa là những giá trị quý giá được nhắc đến trong trang 13 của quyển Lịch sử Quan phủ của Nhà văn Ngô Văn Chiêu, được công bố bởi Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo – 23.

Các câu trong bài chúc này đã diễn tả rõ tính cách của Ngài và tình cảm thân thiết khi chia tay với gia đình Ngô.

Từ những khía cạnh khác nhau trong cuộc đời của Ngài Ngô, chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng Ngài đã hoàn thành nhiệm vụ vi nhơn của mình một cách hoàn toàn, tốt đẹp.

Tuy nhiên, khi tìm hiểu về cuộc đời của Ngài Ngô, chúng ta sẽ nhận ra thêm nhiều chi tiết sâu sắc hơn. Điều này cho thấy rằng Ngài đã hành động một cách tự nhiên, không phải vì bị ép buộc trong vai trò của mình.

Một Tính Cách

Thường thì, thuật ngữ nhân cách được sử dụng để miêu tả tính cách, giá trị tốt đẹp của một con người. Từ “cách” ở đây còn có ý nghĩa: “lấy lòng thành làm cho người khác ngưỡng mộ”.

Nhiều nét đặc biệt tạo nên nhân cách của Ngài Ngô Văn Chiêu, cả trong gia đình và ngoài xã hội.

Một Nhân Cách là sự kết hợp giữa những phẩm chất, giá trị và hành động của một con người, bao gồm tính trung thực, sự tự tin, sự đồng cảm và lòng nhân ái, cùng với các kỹ năng và kinh nghiệm tích lũy trong cuộc sống.

Ông Ngô Văn Chiêu ở ngoài cộng đồng.

Phần này trích một số câu chuyện từ trang 116 của quyển “Lịch sử Quan phủ Ngô Văn Chiêu”. Những tác giả viết quyển tiểu sử này đã sống cùng thời với Ngài nên hiểu rõ hơn.

Câu chuyện về ngài Ngô Minh Chiêu 1.

Một đêm muộn, khi ông đi về đến nhà, đã gặp một tên trộm đang đào đất ở nhà mình. Quân lính đã đến để bắt tên trộm, nhưng ông không đồng ý. Thay vào đó, ông đã giảng giải cho tên trộm và yêu cầu anh ta từ bỏ nghề và không tái phạm nữa. Ông đã dùng số tiền đó để kinh doanh và sống. Vài tháng sau, một vụ tương tự lại xảy ra tại nhà của ông. Ông đã giải quyết vấn đề bằng cách giống như trước đó. Cảm động với lòng nhân ái của ông, người dân trong khu vực đã coi ông như một người anh hùng, và từ đó trở đi không có tên trộm nào viếng thăm nhà ông nữa.

Câu truyện ông Ngô Minh Chiêu 2

Ngày 30 Tết là ngày quan trọng của năm, tất cả mọi nhà, giàu hay nghèo đều lo mua sắm để chuẩn bị cho việc cúng rước ông bà theo truyền thống. Khoảng 11 giờ trưa, tôi đi dạo một vòng ngoài chợ và thấy ông bán bông vẫn ngồi thiu thiu, mấy chậu bông bị lụa tơi tới lui uẩn uộn hết. Tôi biết ông ta không thể bán được nên tôi không có tiền để mua bông về rước ông bà. Tôi đã hỏi qua loa rồi mua hết rau củ, gọi xe kéo về nhà và nói với các con: Con không biết nhưng Ba mua là có ý giúp đỡ cho người ta một chút tiền để mua sắm và cúng ông bà. Ba không biết rằng ở nhà các con đã mua rồi.

Ông Ngô Văn Chiêu trong gia đình

Về nhân cách của ông Ngô, phải nói đến tình cảm vợ chồng. Ông lập gia đình năm 1900 với bà Bùi Thị Thân, sinh được con đầu năm 1901 và con út năm 1920. Ông có tổng cộng 9 người con, trong đó có 2 người đầu mất sớm nên còn lại 7 người (2 gái và 5 trai). Kể như vậy để thấy rằng ông là một người có sức khỏe bình thường và có thể nói là tốt.

Điều đáng chú ý ở đây là đạo đức của ông ta: làm công chức chính quyền, có mức lương khá cao và nhiều điều kiện giống như bạn bè đồng thời tham gia vào “những hoạt động giải trí” (rượu chè, sắc đẹp đàn bà, cờ bạc và sử dụng thuốc phiện), trong đó đặc biệt là chữ “sắc” và chữ “khí” (thuốc phiện được chính phủ Pháp cho phép).

Ngoài ra, từ năm 1920 (khi Ngài 42 tuổi), Ngài đã rời vợ con để đi làm chủ quận ở Hà Tiên, sau đó là Phú Quốc. Lúc đó, vợ Ngài ở nhà đã có thai người con út được ba tháng (ông Mười Minh sinh ngày 09-9-1920). Dù làm ăn xa, lương bổng dồi dào và có chức quyền cao, nhưng Ngài không quan tâm đến việc kết hôn, cũng như không có bất kỳ mối quan hệ tình cảm nào. Điều này thật không bình thường! Ngài đã trở thành một tấm gương mẫu đạo đức cho con cháu trong gia đình và đặc biệt là cho tất cả các thế hệ sau của Ngài.

Để giáo dục con cái, Ngài đã áp dụng phương pháp sống của mình làm gương. Ví dụ cụ thể là vào cuối năm 1924, khi ông Ngô chuyển công tác về Sài Gòn (gia đình vẫn ở Tân An) với chức vụ một Tri phủ và mức lương 140 đồng/tháng (tương đương khoảng 25-30 triệu đồng/tháng hiện nay). Mặc dù có tiền nhưng ông sống rất giản dị, mặc đồ vải rẻ tiền và ít mua đồ mới. Dưới đây là một đoạn thư của ông gửi về cho con gái từ Sài Gòn vào ngày 12/10/1924:

Ba muốn mua hai cái áo vải trắng dài ở Chợ Nhật Tảo và đem về cho cô Ba Lang may lại áo quần đã hư hết nhiều năm nay, theo mẫu cũ ở nhà để tiết kiệm. Hàng hóa được đóng gói kỹ càng. Nếu có đủ tiền, Ba sẽ mua một cái áo và một cái quần châu sa trắng, giá rẻ, để đi chơi. Còn 2 cái áo trắng dài sẽ được dùng để cúng và để dành.

Quán phở mà áo quần bẩn thỉu hết, phải nhặt lại mặc tiếp, nếu muốn mặc đồ mới đi chơi thì chọn vải rẻ tiền thôi. Sau đó, Ngài có lời dạy con rõ ràng hơn:

“Ba người nghèo khó, không còn một xu nào, tiền trong kho để dành cho họ, phải biết tiết kiệm để sống mà không bị người khác chê bai, có quần áo để no bụng để tránh bị ai đòi nợ là tốt trong cuộc đời… Giữ bản thân để không bị những lời đàm tiếu đó dù chết rồi cũng được tôn vinh.”

Trước đó, trong quá trình làm chủ đảo Phú Quốc, vào ngày 31-8-1923, Ngài đã viết thư cho các con. Tại đoạn mở đầu, Ngài đã giảng dạy:

Cha vui mừng khi con biết khôn kheo và đổi lại quyền cha mẹ đặng lo cho trong nhà và em lớn lên. Cha khuyên các con luôn trung thực, chân thành, đừng mua đồ giả mạo để bán đồ kém chất lượng. Trong việc kinh doanh như vậy, có nhiều tội lỗi, dù có làm giàu đi chăng nữa cũng phải trả giá, và sau khi chết linh hồn còn phải chịu tội lỗi nữa…”.

Từ chiếc áo cũ, từ lời khuyên con nhẹ nhàng (Cô Tư Lợi lúc đó mới 19 tuổi, con lớn nhất trong nhà)… Cũng đủ để cho thấy nhân cách lớn của Ngài Ngô Văn Chiêu đã có sẵn từ mọi góc cạnh cuộc sống. Tiền bạc có của Ngài được dùng để mở sổ tiết kiệm cho mỗi đứa con để dành cho việc học trong tương lai, và luôn nhắc nhở con từ nhỏ, phải kiếm sống bằng công sức và lòng chân thật với mọi người.

Pass

“Hãy nhớ lời cha dạy, ăn ở hiền lành, buôn bán trung thực, không nói chuyện với ai, chỉ cần chăm chỉ làm việc. Việc kiêng kỵ là một phép Thần Tiên dạy từ lâu, đã tồn tại hàng nghìn năm và không phải mới.”

Nếu không hợp tác với nhau, đất nước sẽ gặp nguy hiểm và những ruộng đất sẽ bị bỏ hoang. Nếu không chấp nhận nhà của người khác, có thể sẽ phải đưa ra tòa án và gây ra nhiều vấn đề, bao gồm cả sức khỏe và tài chính. Các vấn đề lớn và nhỏ cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Trong đoạn khác của bức thư, Ngài viết về sự hạnh phúc và sự tận hưởng cuộc sống của con người, cũng như những giá trị văn hóa và tôn giáo trong đời sống hàng ngày.

Cuộc đời của quan chức Ngài Ngô Văn Chiêu được coi là một con đường thăng tiến đẹp. Ở tuổi 21 (năm 1899), Ngài đã đậu Thành Chung và được nhận làm Thơ ký tập sự ngay. Sau đó, Ngài đã lên chánh ngạch vào năm 1901 và thăng tiến lương vào các năm 1904, 1908, 1910, 1913 và 1916. Năm 1917, Ngài đậu Tri huyện và lên Tri huyện hạng I vào năm 1920, sau đó lên chức Tri phủ vào năm 1924 và lên Đốc phủ vào năm 1926 (đây là chức phạm cao nhất mà người Việt có thể đạt được trong chế độ thời bấy giờ)… Tuy nhiên, đến năm 1931, khi Ngài 53 tuổi, Ngài đã từ nhiệm để chuyên tâm tu hành. Trên thực tế, ở tuổi và địa vị này, hầu hết mọi người đều tận hưởng cuộc sống. Nhưng Ngài lại khác người, Ngài đã đi đến Phú Quốc để làm chủ quận – như vua của một vùng – và Ngài cảm thấy như mình bị đi đày xa xứ. Trong bức thư gửi cho con gái từ Phú Quốc, Ngài đã viết:

Sau khi suy nghĩ và xem xét, đã gần 4 năm cha tôi bị đày đọa, nhưng các rủi ro trong nhà, tai nạn đã qua khỏi hết, đến mức có người quan tâm và thương xót, đó là một phước lành.

Ông không coi việc làm quan chức là quan trọng mà xem đó như một trở ngại để trả nợ kiếp trước, và nhờ tu hành để giúp gia đình con cái có cuộc sống tốt hơn. Cách suy nghĩ này thật kỳ lạ. Tâm lý của ông đã ảnh hưởng suốt con đường đời, từ khi chọn vợ cho đến làm việc, sinh hoạt… Qua một số câu chuyện cụ thể đã được đề cập.

Cuộc sống của Ngô Văn Chiêu

Một phần câu chuyện về nhơn đạo của Ngài Ngô Văn Chiêu đã được kể, nhưng chắc chắn còn nhiều điều khác chúng ta chưa biết. Nghiên cứu cuộc đời của Đức Ngô, chúng ta sẽ thấy rằng ông là một nhân cách lớn với đức tính khiêm nhường. Nhìn lại, cuộc đời của Đức Ngô rất rõ ràng và có thứ tự: 20 năm đầu đi học, 20 năm kế báo hiếu và lập gia đình, 12 năm cuối ly giai.

Đức Ngô đã hoàn thành phần Nhơn đạo của mình tốt. Công việc này chỉ là nền tảng, không thể thiếu, để tiếp nối một công việc khác lớn hơn nhiều, đó là đường tu Thiên đạo. Nhờ có Thiên đạo, Đức Ngô mới đạt được phẩm vị Đại Tiên.

Hiện nay, chúng ta đang có điều kiện rất thuận lợi để hành tròn Nhơn đạo và Thiên đạo như Ngài Ngô đã giảng dạy cho các thế hệ sau. Nếu tuân thủ Tân pháp Cao Đài, các điều kiện thuận lợi đó cũng sẽ được trải nghiệm, giống như lời dạy của Ngài Ngô cho các con: “Mọi rủi ro trong nhà, tai nạn, các con đều qua khỏi hết, đến đâu có quới nhơn phồ trì”. Việc trả những món “nợ tiền khiên” cũng sẽ dễ dàng hơn.

Nếu tuân thủ Tân pháp Cao Đài – kỹ năng, công bằng và công trình – chắc chắn mọi người đều có thể đạt được thành công như vậy.


Posted

in

by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *