ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI.
Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, TGP Huế Mừng Lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời, 2021.
Theo Lời Phật tìm hiểu, vào ngày lễ Các Thánh Nam Nữ 01-11-1950, Giáo hoàng Pi-ô XII đã tuyên bố Tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời dựa trên Tông hiến “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa vô cùng quảng đại). Tín điều này tôn vinh Thiên Chúa toàn năng là Đấng đã ban muôn vàn ơn lành đặc biệt của Người trên Trinh Nữ Ma-ri-a, để tôn kính Con của Người là Vua muôn đời, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, để Bà Mẹ cao cả của Người Con đó được hiển vinh hơn, và để toàn thể Giáo Hội hân hoan phấn khởi; Tôi tớ Chúa, Giáo hoàng Pi-ô XII công bố và xác nhận Tín điều này bằng quyền bính của Chúa Giê-su Ki-tô, của hai Thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, và bằng thẩm quyền của mình. Tín điều này tuy là mới mẻ, nhưng nó được xây dựng dựa trên niềm tin đã có từ thời Giáo hội sơ khai và được diễn tả trong Phụng vụ và giáo huấn của các Giáo phụ và các nhà thần học trong suốt 20 thế kỷ qua. Cuối cùng, Tín điều này tuyên xưng rằng Người Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a Đồng Trinh, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế của mình, đã được mang lên hưởng vinh quang trên trời cả thân xác lẫn linh hồn.
Thủ lĩnh Giáo hội, Đức Thánh Cha Pi-ô XII cũng quy định các nghi thức tôn giáo trở thành một lễ trọng đặc biệt trên toàn thế giới với nghĩa vụ bắt buộc phải tham dự Thánh lễ. Ngày 15 tháng 8 đã trở thành một ngày truyền thống cổ xưa bắt nguồn từ Giêrusalem vào thời hoàng đế Cons-tan-ti-nô I (thế kỷ thứ 4).
Vì lý do nào Mẹ Ma-ri-a được đưa lên thiên đàng ngay lập tức sau khi kết thúc cuộc sống trên đời này?
1- Lên trời lập tức, kết quả của các đặc ân từ Thiên Chúa.
A- Đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa.
Sau khi toàn thể loài người phạm tội (sự việc mà Thiên Chúa đã biết trước khi tạo ra họ có tự do, một điều kiện để làm nghĩa tử của Người nhưng cũng là con dao hai lưỡi), Thiên Chúa tiến hành bước hai của chương trình của Người là sai Đích Tử nhập thế và nhập thể để sống cùng với nhân loại, giải thoát họ khỏi hố sâu tội lỗi, đền bù những lỗi lầm mà họ đã gây ra, liên kết họ với Người trong Con của Người. Để đạt được mục tiêu này, Thiên Chúa tất yếu phải chọn cho Đích Tử của Người một bà mẹ phàm nhân, như Cựu Ước đã tiên báo: “Này đây, một người phụ nữ sẽ mang thai, sinh hạ một đứa con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Is 7,14), trao cho bà tước hiệu Mẹ Con Thiên Chúa, và thêm tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, vì Người Con ấy có bản tính và thể hợp với Chúa Cha (như tuyên tín của Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431. X. Bộ Nguồn liệu Tín lý Công giáo Denzinger-Schonmetzer, số 252). Người Con ấy cũng là Đấng Cứu Chuộc nên người mẹ của Người sẽ được gọi là Mẹ Đấng Cứu Chuộc (nhưng không “đồng công cứu chuộc” như sẽ được thấy bên dưới). Vậy, tước hiệu Mẹ Con Thiên Chúa và Mẹ Thiên Chúa là nền tảng và nguồn cội của những điều cao quý và tốt đẹp mà Thiên Chúa sẽ thực hiện tại Đức Maria (như lời sứ thần Gáp-ri-en nói trong ngày Truyền tin: “Hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” Lc 1,28) khi Mẹ bắt đầu hiện hữu trong không gian thời gian và tham gia phục vụ chương trình cứu chuộc.
B- Đặc ân Vô nhiễm Nguyên tội.
Từ khi tượng thai trong lòng mẹ, tất cả cháu con của Adam-Eva đều bị xa cách Thiên Chúa và trở thành những người mất ơn. Điều này là kết quả của tội nguyên tổ mà chỉ có thể được khắc phục bằng phép Rửa. Tuy nhiên, tình trạng bản tính tổn thương vẫn còn tồn tại (bao gồm ba bản năng quyền lực, sinh tồn và truyền sinh dễ chệch đường và đi thái quá). Chỉ có một người trong số tất cả những con người thuộc nhân loại đã thoát khỏi tình trạng thê thảm đó: Đức Mẹ Maria. Trong sắc lệnh “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa khôn tả) được ban hành vào ngày 8/12/1854, Chân Phước Giáo Hoàng Piô IX đã tuyên bố rằng Mẹ Maria là vô nhiễm nguyên tội ngay từ khi tượng thai nhờ ơn sủng và đặc ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, dựa trên công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc của loài người. Tuyên bố này cũng là kết quả của một trào lưu thần học, tu đức và phụng vụ lâu đời, đặc biệt là dòng Phanxicô với các thần học gia như Chân Phước Jean Duns Scot (1266-1308). Theo quan niệm “praeredemptio” (tiền cứu chuộc) do họ đưa ra, Mẹ Maria được hưởng công lao cứu chuộc của Chúa Kitô trước khi Người xuống thế làm người, bằng một ơn không phải giải thoát Mẹ khỏi tình trạng tội lỗi, mà là dự phòng để Mẹ tránh khỏi sa vào tình trạng đó. Theo Duns Scot, đây là cách cứu chuộc hoàn hảo nhất. Chính Thánh Augustinô cũng dùng một hình ảnh đầy ấn tượng để miêu tả việc Chúa Kitô cứu chuộc chúng ta bằng cách dùng Thánh giá kéo chúng ta lên khỏi hố sâu tội lỗi, và cứu chuộc Mẹ Maria bằng cách dùng Thánh giá giữ Mẹ khỏi sa xuống hố này.
Sau 4 năm tuyên bố này, vào ngày 25-03-1858, Đức Mẹ đã xác nhận rằng bản thân là Đấng “Vô nhiễm Nguyên tội từ lúc được thụ thai” khi hiện ra trước thánh nữ Bê-na-đê-ta tại Lộ Đức.
C- Đặc ân Đồng trinh trọn đời.
Vào năm 649, Công đồng La-tê-ra-nô đã tuyên bố: “Ai không theo các Nghị phụ thánh đức và không tuyên bố rằng Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, luôn giữ trinh nguyên và không có tội, đã thực sự mang thai bởi sự huyền diệu của Thánh Thần và không cần tinh trùng (của nam giới), là do ý muốn Thiên Chúa Ngôi Lời, Đấng đã sinh ra từ Thiên Chúa Ngôi Cha trước khi có thời gian” (Denzinger-Schonmetzer, số 503).
Tình trạng đồng trinh của Mẹ không chỉ được hiểu từ khía cạnh thể chất, cơ thể mà còn phải được hiểu từ khía cạnh tâm lý, tinh thần. Chỉ khi ở mức độ cao nhất này, Mẹ mới được xưng danh là “Rất thánh Nữ Đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh” và “Nữ Vương các thánh đồng trinh” (Kinh cầu Đức Bà). Khái niệm đồng trinh ở đây bao gồm cả sự trung trinh, có nghĩa là Mẹ luôn giữ mình trong sạch từ suy nghĩ, lời nói đến hành động và không bao giờ có hành vi vợ chồng với Thánh Giuse. Ngoài ra, Mẹ còn trung thành mãi mãi trong tình yêu với Thiên Chúa và không bao giờ vi phạm đạo đức, đối lập với ý đồ của Người.
Mặc dù được tôn vinh là Mẹ Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a đã trải qua một cuộc sống đầy khó khăn, như được tiên báo bởi cụ già Xi-mê-on tại sân Đền Thờ (Lc 2,35). Trước đó, mối tình với Thánh Giuse đã gần như đổ vỡ khi Thánh nhân quyết định từ bỏ vì cho rằng mình không còn quyền can thiệp vào tình yêu với vị hôn thê, nhưng sau đó trở thành một vật thánh của Thiên Chúa vì đã chăm sóc Đích Tử của Người. Mẹ cũng đã trải qua những đau đớn khủng khiếp khi sinh con, giống như bao mẹ khác trên thế gian này, do tất cả những hệ lụy của cuộc sống con người và việc nhập thể của Con Thiên Chúa, nhưng Mẹ đã chấp nhận và tận hiến mọi nỗi đau đớn đó cho Thiên Chúa. Theo thần học, chúng ta nên hiểu rằng Mẹ đồng trinh không chỉ trước và sau khi sinh con, mà cả trong khi sinh con. Theo Giáo lý Hội thánh Công giáo số 499: “Hội Thánh tuyên xưng rằng Đức Ma-ri-a là một đồng trinh thật sự và trọn đời, cả trong khi sinh hạ Con Thiên Chúa trở thành người. Việc sinh hạ Đức Kitô không làm suy giảm sự trinh khiết hoàn toàn của Mẹ”.
Sau đó là cảnh trường khi Chúa được sinh ra trong chuồng lừa, được bồng Chúa chạy sang Ai Cập và lạc mất Chúa trong 3 ngày tại Đền thờ. Bên cạnh đó là cuộc chiến để duy trì sự trong sạch với một người chồng trẻ trung, đáng yêu và đức hạnh (lối vẽ Thánh Giuse như một ông ngoại bồng cháu cho con gái không có nền tảng lịch sử, đồng thời giảm bớt giá trị nhân đức trong cặp vợ chồng này). Đức Ma-ri-a tiếp tục chịu đựng nhiều đau khổ khi đi theo Con trên con đường rao giảng Tin Mừng, đối mặt với kẻ thù rình rập, thất bại, âm mưu và điểm cao nhất là cái chết tức tưởi, ô nhục của một tội phạm bị đóng đinh, khiến bà mẹ cũng bị nguyền rủa. Tuy nhiên, “Mẹ Sầu bi” đã vững vàng đứng dưới chân thập giá với tâm hồn chấp nhận tất cả! Stabat Mater dolorosa!
Tình yêu trung thành với Thiên Chúa, được thể hiện qua sự đồng trinh hoàn hảo của Mẹ, cũng được thể hiện qua việc Mẹ hợp tác chặt chẽ với Chúa Giêsu trong công tác cứu rỗi, như một môn đệ trung thành và như một người phụ nữ luôn sẵn sàng vâng lời. Tình yêu này bắt đầu từ lời gợi ý trong tiệc cưới Cana, đến việc đón nhận Gioan làm con dưới chân thập giá, và kết thúc tại việc cầu nguyện với nhóm Tông đồ, môn đệ và người thân quen để chuẩn bị nhận ơn Thánh Thần (Cv 1,14) trước khi Mẹ rời khỏi cuộc sống trần gian.
Sự tiết lộ này của Đức Mẹ trước thời hoàng đế Cons-tan-ti-nô I (280-337), được các tín đồ ghi lại qua một lễ trong nhà thờ trên núi cây dầu tại Giê-ru-sa-lem vào ngày 15 tháng 8 hàng năm. Lễ này được gọi là lễ Đức Mẹ an giấc (Dormition). Tên gọi này hoàn toàn có cơ sở vì chúng ta biết rằng cái chết là hành động cuối cùng của một người, bao gồm cả tình cảm và sự thay đổi của thân xác. Với chúng ta, ngoài việc kết thúc sự sống, phân rã cơ thể, phút lâm chung còn đi kèm với sự tiếc nuối vì bao nỗi đau: những ước vọng, niềm vui trong cuộc sống, sự tàn phá trong trái tim vì phải từ giã những người thân yêu, những dự án chưa hoàn thành; sự sợ hãi trong tâm trí vì các sai lầm, tội lỗi, và còn sự lo lắng trước tương lai không rõ ràng. Ngay cả những thánh nhân đã trải qua sự thanh lọc của cuộc đời, cũng có những cảm xúc đó. Tất cả đều tạo nên cái gọi là cái chết, hậu quả của tội lỗi. Động vật cũng chết nhưng không có những cảm xúc đó, vì vậy các nhà thần học, chẳng hạn như linh mục Karl Rahner, không gọi nó là cái chết mà chỉ là sự ngã quỵ, lụi tàn (succomber trong tiếng Pháp). Tuy nhiên, với một người như Đức Mẹ – qua những gì đã trình bày ở trên – thì không thể nói như vậy. Sự tiết lộ của Đức Mẹ chỉ có thể gọi là giấc ngủ, nhưng không chỉ dừng lại ở đó… Ở đây có một câu hỏi: liệu Chúa Giêsu có tuyệt vọng trong giờ chết khi Người nói lên trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của tôi, sao Ngài bỏ rơi tôi” (Mt 27,46; Mc 15,34). Hầu hết các nhà chú giải cho rằng đó là Chúa chỉ đọc lên câu đầu tiên của Thánh vịnh 22 (21), mô tả cuộc khổ nạn của Người để cho thấy Người đang hoàn thành những gì được nói trong đó. Trước đó, trong phòng bàn tiệc, Người đã nói với môn đệ: “Tôi không cô đơn, vì Chúa Cha ở với tôi” (Ga 16,32). Sáu câu còn lại trên thập giá chỉ toát lên một tinh thần yêu thương, an bình và phó thác.
2- Lên trời hồn xác, kết quả từ cuộc phục sinh của Chúa Kitô.
Như đã đề cập, trong những thế kỷ đầu, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời được gọi là Lễ Đức Mẹ an giấc. Lễ này được tổ chức với sự trang trọng từ năm 1950 khi Đức Giáo hoàng Pi-ô XII định tín việc Mẹ được cất nhắc về trời cả hồn lẫn xác (xem trên). Tông hiến “Munificentissimus Deus” cũng nói: “Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên tổ. Tuy nhiên, Đức Mẹ Ma-ri-a không bị tội Nguyên tổ, cũng như không có tội riêng. Do đó, chắc chắn và hợp lý khi Mẹ được đưa hồn xác lên trời.” Ngoài ra, Mẹ Ma-ri-a luôn kết hợp với Con mình, không bao giờ Mẹ và Con xa nhau, ngay cả khi Chúa Giê-su chịu chết trên thập giá. Mẹ vẫn đồng hành với Người (xem Ga 19:25-27). Vì vậy, không có lý do gì khi Mẹ và Con không cùng chiến đấu và không cùng chiến thắng, khi từ giã cuộc sống trần tục để rồi được Người con Thiên Chúa Chí Thánh, Chí Nhân và Chí Hiếu đón lên trời để tiếp tục đồng hành với Người và hướng dẫn Nhiệm Thể Người (Giáo Hội) trên thế giới. Loài người tồn tại từ xưa đến nay không ai được như vậy, bởi vì thân xác chỉ là “cái vỏ bằng đất làm linh hồn ra nặng” (xem Kinh Nghiệm 9:15) và “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (xem Sách Thánh 3:19). Tuy nhiên, với tín điều trên, Giáo hội đã công bố một chân lý trọng đại đã được Kitô hữu từ ngàn xưa cảm nhận: Thân xác của Người Phụ nữ đã trao ban thể xác cho Con Thiên Chúa không phải chịu định luật của sự thối rữa!
Cơ sở của ơn đặc biệt này là sự tái sinh của Chúa Ki-tô, tái sinh với một thân xác đã tồn tại trước đó nhưng hiện đã hoàn toàn thay đổi, không còn phải tuân theo các quy luật của không gian và thời gian. Các phép mầu về việc Chúa hiện ra cho các tông đồ sau khi sống lại đã giải thích rằng, Người vẫn có tay chân để chạm, vẫn có gương mặt để nhận ra, nhưng đột nhiên biến mất, đi qua cánh cửa, đi hàng ngàn dặm và xuất hiện ngay lập tức. Tê-pha-nô đã thấy Người “đứng” bên ngai Thiên Chúa (x. Cv 7,56). Với sự tái sinh, Lời Ngài đã mở ra một hình thức hiện hữu mới cho chính Ngài và cho những ai theo Ngài, kết hợp với Ngài trong Thánh Thể: thân xác phàm trần sau khi chết sẽ không phân hủy nhưng sẽ được thay đổi. Mọi thứ đều được Thiên Chúa làm mới, chứ không phải tiêu diệt (x. Kh 21,5). Hình thức hiện hữu này được chứa đựng trong chốn Thiên Đàng, nơi thế giới của Thiên Chúa.
Theo lời Thánh Phaolô: “Chúa Ki-tô đã phục sinh từ cõi chết, mở đường cho những ai đã qua đời… Mỗi người theo thứ tự của mình” (1Cr 15,20). Và Đức Mẹ là người đầu tiên và xứng đáng nhất để được ban tặng ân huệ đó. Trong khi đó, tất cả những người khác sẽ phải chờ đến Ngày Chúa trở lại (x. 1Cr 15,23).
Kết luận.
Cộng đồng Va-ti-ca-nô II, theo Hiến chế tín lý về Giáo Hội (Ánh sáng Muôn dân), đã nhắc lại tín điều về Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời với những kết luận dành cho Hội Thánh và mỗi tín đồ: “Ngày nay, trên thiên đàng, Mẹ Đức Giê-su được vinh hiển với cả hồn và xác, là hình ảnh và nguồn gốc của Hội Thánh trong tương lai; đồng thời, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (2Pr 3,10), Mẹ chiếu sáng như một dấu chỉ lòng tin và niềm an ủi cho dân Chúa đang sống trên đời”. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (số 966) cũng nói tương tự: “Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Vô Nhiễm, được Thiên Chúa bảo vệ khỏi nhiễm bệnh của tội nguyên, đã được đưa lên thiên đàng cả hồn lẫn xác, sau khi hoàn thành cuộc đời trần gian, và được Thiên Chúa tôn lên làm Nữ Vương Vũ Trụ, và như vậy, Mẹ hoàn toàn phù hợp với Con Mình là Chúa của các chúa, và đã giành chiến thắng trước tội lỗi và cái chết. Cuộc lên thiên đàng của Đức Trinh Nữ rất linh thiêng, là sự tham dự duy nhất vào sự Phục sinh của Con Mình và là việc thể hiện sự phục sinh của tất cả các người tín hữu Kitô giáo”.
Như đã thấy từ trước đó, Đức Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa để có tất cả; hiện nay Ngài là Mẹ của chúng ta để ban cho chúng ta tất cả các ân sủng từ Thiên Chúa, để chúng ta có thể theo gương Mẹ và trở nên giống Con của Ngài: kiểm soát tất cả các bản năng, chống lại tất cả các tội lỗi, trung thành trong tình yêu đối với Thiên Chúa và luôn mong muốn được sống lại cùng linh hồn và xác ở Thiên Đàng hạnh phúc, trong Chúa và bên cạnh Mẹ.
Trả lời