Từ đó đến đầu thế kỷ 20, miền Nam đã tiếp nhận những người dũng cảm đến từ nhiều vùng miền, mang theo văn hóa, tôn giáo đa dạng, tạo nên một vùng đất mở rộng, chấp nhận sự đa dạng.
Theo Lời Phật tìm hiểu, khi người Pháp chiếm Nam Kỳ vào cuối thế kỷ XIX, Nam Kỳ đã là một vùng đất đa tôn giáo, với người Khmer theo Phật giáo tiểu thừa, người Chàm theo ảnh hưởng của Ấn giáo, Hồi giáo, Phật giáo, tín đồ Thiên Chúa giáo lánh nạn diệt đạo của triều đình, và những người Hoa phản Thanh phục Minh đến sống chung với người Việt đã chịu ảnh hưởng của Tam giáo (Phật giáo, Khổng giáo và Nho giáo), trọng tình nghĩa huynh đệ và trung can nghĩa khí.
Không chỉ giữ được sự đồng thuận về tôn giáo, cư dân còn chấp nhận và khám phá những tín ngưỡng mới để sống chung với tình trạng hỗn loạn trong thời kỳ cai trị của người Pháp tại Nam Kỳ. Thời Chiến tranh Thế giới thứ Nhất bùng nổ ở châu Âu, chính quyền Pháp thực hiện cai trị nghiêm ngặt, cùng với phong trào chống Pháp mạnh mẽ tại miền Nam và phong trào Duy Tân truyền cảm hứng cho cải cách xã hội, và còn nhiều hơn thế nữa.
Với tương lai không ổn định như hiện nay, người dân dễ tin vào những thế lực siêu nhiên để bảo vệ bản thân giữa những thời điểm khó khăn. Hồ Lê đã miêu tả niềm tin của người dân Nam Kỳ vào thế lực siêu nhiên như sau: “Trong hoàn cảnh như vậy, người dân Nam Bộ [Nam Kỳ] tự nhiên phải tin vào sự may mắn hay xui xẻo. Để tránh khỏi những điều không may, họ cầu nguyện và khấn vái trước sự phù hộ của các vị thần, tổ tiên và cả những người vô danh”.
Trong cuộc đảo lộn đó, phong trào Thông linh học hay “cầu cơ” bắt đầu trở nên phổ biến ở Nam Kỳ nhằm liên lạc với các linh hồn. Tiếp xúc với các linh hồn cũng là một phần trong việc thực hành Đạo giáo. Những câu lạc bộ được thành lập dựa trên hướng dẫn trong các cuốn sách Thông linh học của phương Tây đang rất phổ biến trong thời gian đó. Người Pháp đã cấm các hoạt động này, nhưng người dân vẫn thầm lặng tham gia vào các câu lạc bộ đó.
Những người cầu cơ thường được chia thành ba nhóm chính. Một nhóm quan tâm đến các vấn đề thời sự để dự đoán tương lai của đất nước. Nhóm khác sử dụng đàn cơ để giải trí và tham gia các bài thi phú. Nhóm còn lại là tầng lớp bình dân, họ cầu cơ để tìm thuốc chữa bệnh, cầu mong sức khỏe và sự thọ. Cầu cơ có nhiều phương pháp khác nhau, nhưng phương pháp phổ biến nhất là xây bàn và sử dụng ngọc cơ.
Nhà nghiên cứu Lê Anh Dũng thu thập được các tài liệu ghi lại rằng từ năm 1913, danh xưng Cao Đài đã xuất hiện trong vài đàn cơ tại một số tỉnh Nam Kỳ nhưng không được chú ý. Cho đến những năm 1920, đạo Cao Đài mới thu hút được những người đồng hành đầu tiên.
Trả lời