Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ đền thờ và văn khấn Mẫu Thoải

Theo Lời Phật tìm hiểu Thánh Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ, còn được gọi là Mẫu Thoải, là một trong ba vị nữ thần thuộc hàng Tam Tòa Thánh Mẫu. Đây là nữ thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, có trách nhiệm quản lý các vùng sông nước. Để giúp quý độc giả hiểu rõ hơn về Mẫu Thoải, ban biên tập mời quý vị tham khảo bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn về Thánh Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ.

”Thỉnh mời Thánh Mẫu Đệ Tam.

Xích Lân Long Nữ ngự miền Thoải Cung.

Kính Xuyên sớm kết loan phòng.

Thảo Mai tiểu thiếp ra lòng gieo oan.

Kính Xuyên chẳng xét ngay gian.

Vàng mười nỡ để lầm than sao đành.

Lòng trời thương kẻ ngay lành.

Xui quan Liễu Nghị nho sinh tìm vào…”.

Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ đền thờ và văn khấn Mẫu Thoải

Ai là người đứng đầu Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ?

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam tứ phủ của người Việt, ba vị thần nữ cai quản các vùng đất khác nhau bao gồm vùng trời (thượng thiên), vùng rừng núi (thượng ngàn) và vùng sông nước (thoải phủ). Thánh Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ là vị thần nữ thứ ba, chăm sóc vùng đồng bằng sông nước. Trên bàn thờ Tam tòa thánh Mẫu, Mẫu Thoải mặc áo dài trắng, ngồi bên trái Thánh Mẫu Đệ nhất Thượng Thiên. Từ “Thoải” có nghĩa là “nước”. Áo dài trắng cũng là biểu tượng cho nước, thế giới mà Mẫu cai quản.

>>> Cộng đồng Thoải Phủ

  • Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ.
  • Quan Hoàng Bơ Thoải là ai, sự tích và đền thờ Quan Hoàng Bơ.
  • Cô Bơ Thoải Phủ; Sự tích, văn khấn, tiệc cô Bơ Thoải.
  • Cậu Hoàng Bơ Thoải là ai và đền thờ cậu ở đâu ?

Truyền thuyết Thánh Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ

Câu chuyện truyền thống về Thánh Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ ban đầu là con Vua Bát Hải Long Vương Thủy Quốc Động Đình, theo lời của vua cha kết duyên với Kính Xuyên là con Vua Đất. Một ngày, Kính Xuyên không có mặt, tiểu thiếp Thảo Mai cố gắng giả danh để hãm hại ngài. Kính Xuyên bị mù quáng, nghe lời Thảo Mai vu cáo rằng ngài thất tiết, ngài bị đóng cũi và bỏ lên rừng để thú dữ ăn thịt. Trong rừng sâu, ngài không chỉ được thú rừng yêu mến và mang quả vật đến, mà còn tình cờ gặp được nho sĩ Liễu Nghị. Cảm thông với nỗi oan của ngài, Liễu Nghị theo lời ngài mang thư theo chỉ dẫn đến Hồ Động Đình để truyền thư. Chàng trút kim thoa vào cây ngô đồng theo lời tiên ngài dặn thì có như rằng dòng nước chia đôi để đón chàng tới thủy cung. Tại đây, chàng kể hết câu chuyện và tình hình hiện tại của ngài cho vua cha. Sau đó, vua cha sai người đi đón và minh oan cho ngài. Đồng thời, vua cha cho phép ngài kết duyên với Liễu Nghị và trừng phạt Kính Xuyên và Thảo Mai. Dựa trên câu chuyện này và lòng tín ngưỡng của nhân dân với Thủy tổ, Mẫu Đệ Tam được coi là thần linh và được tôn xưng trong các triều đình phong kiến như bà Nguyễn Thị Châu (Châu Nương) ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh thời Lê – Nguyễn với tôn xưng mẫu Hàn Sơn.

Sau này, theo một số truyện kể, ngài thường xuất hiện, bảo vệ những người ra khơi khỏi những đợt sóng lớn nên được mọi người biết ơn và xây đền thờ ở khắp nơi cửa sông, cửa biển. Khi trước đây ở chốn Động Đình, ngài là con vua cha Bát Hải nên được gọi là: “Động Đình Trung Công Chúa Ngọc Hồ Thần Nữ”, sau này ngài còn có danh hiệu: “Bạch Ngọc Thủy Tinh Xích Lân Long Nữ Công Chúa”.

Cũng có giả thuyết rằng ngài là con gái của Long Vương. Một ngày nọ, ngài gặp Kinh Dương Vương khi đang đi chơi hồ Động Đình. Kinh Dương Vương là con cháu của Thần Nông, đã yêu ngài và cầu hôn ngài. Sau đó, hai người có con là Lạc Long Quân, người được coi là cha của Rồng và tổ tiên của người Việt. Trong phần Ngoại ký của Đại Việt sử ký toàn thư, Ki Hồng Bàng đã viết: “Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, có quốc hiệu là Xích Quỷ, vua lấy con gái của Động Đình Quân làm vợ, tên là Thần Long và sinh ra Lạc Long Quân.” Trong Lĩnh Nam chích quái cũng có thêm thông tin: “Kinh Dương Vương có khả năng đi dưới nước, lấy con gái của hồ Động Đình làm vợ, tên là Long Vương và sinh ra Sùng Lãm, có tên hiệu là Lạc Long Quân.”.

Dù xuất xứ của Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ như thế nào, thì tổng quát lại cũng là cách người dân Việt Nam, nơi “đầu quốc, nhì giống, ba cần, bốn giống” tôn vinh thần của sông nước. Nói rộng ra, đó là cách con người biểu đạt tình cảm của mình với thiên nhiên, nhân hóa thiên nhiên để thiên nhiên gần gũi với cuộc sống con người, không chỉ trong cuộc sống sản xuất mà còn trong cuộc sống chiến đấu.

Sự kỳ tích bốn lần Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ hiển linh giúp đất nước

Lần đầu tiên: Mẫu hiển linh hỗ trợ vua Lý Thái Tổ.

Truyền thống vùng Đồng Bằng Bắc Bộ thường xuyên gặp phải lũ lụt. Khi vua Lý Thái Tổ chuyển đô về Thăng Long, ông bắt đầu công việc quản lý nước. Công việc kéo dài cho đến khi vua Lý Thái Tông hoàn thành. Các đoạn đê được kết nối với nhau và có quy mô rộng lớn như ngày nay. Trong quá trình xây dựng hệ thống đê, lũ lụt vẫn thường xuyên xảy ra gây khó khăn cho người dân. Mẫu Thoải đã sai các thủy thần, tướng lĩnh của mình đến các làng bên cạnh Thăng Long để hỗ trợ ngăn chặn lụt. Truyền thuyết này còn được ghi chép tại các làng Nhật Chiêu, Quảng Bá, Tây Hồ, Yên Phụ,…

Thành công trong cuộc chiến chống quân Nguyên.

Quân Nguyên xâm chiếm đất nước, vua Trần Nhân Tông lúc đó bổ nhiệm Hưng Đạo Vương làm Đại Nguyên Tướng để dẹp giặc. Khi đi qua sông Xâm Miện (khu đền Dầm) vào lúc mặt trời lặn, ông cho quân lính cắm trại nghỉ ngơi bên bãi sông trong khi ông ở lại trên thuyền.

Buổi tối, trong giấc mơ, ông thấy một cô gái mặc áo trắng, đeo đai ngọc lưu ly cưỡi con rồng vàng đến trước mặt ông và nói rằng: “Tôi là con gái của Long Vương, công chúa Thủy Tinh Ngọc Dung, đã được sai đi giúp ông tiêu diệt kẻ thù. Hãy dẫn quân đuổi đánh kẻ thù, tôi sẽ hỗ trợ âm phù.” Khi tỉnh dậy, ông biết rằng đó chỉ là một giấc mơ báo hiệu có người hỗ trợ, vì vậy ông ra lệnh cho quân đội chiến đấu với kẻ thù. Trong cuộc chiến ác liệt, gió thổi mạnh, nước sông cuồn cuộn, sóng lớn tràn ngập làm cho tàu chiến của kẻ thù bị chìm hoàn toàn.

Sau khi giành chiến thắng, vị vua thông báo thành công và đề cập đến việc Ngọc Dung đã báo trước trong mơ. Vua đã sai một đại sứ đến Xâm Miện để tạ lễ và trao phong sắc.

”Hoàng Long tĩnh mạch, đoan trang.

Anh linh Thục Diệu phu nhân Trung Đẳng Thần.”.

Lần thứ ba: Mẫu hiển linh hỗ trợ vua Lê Thánh Tông.

Tích này liên quan đến ngôi đền Hàn Sơn nổi tiếng ở Thanh Hóa. Tích xảy ra trong quá trình vua Lê đưa quân đi chiến đấu với Chiêm Thành. Khi thuyền đi qua sông Lèn thì gặp một trận gió mạnh. Vua sau đó đã tổ chức một buổi lễ để xin sự giúp đỡ từ các vị thần. Mẫu Thoải đã gửi một nữ tướng đến đóng vai trò trị. Ngay sau đó, sông trở nên yên tĩnh và gió ngừng. Sau khi chiến thắng và trở về, nhà vua đã nhớ công ơn và trao tặng cho Mẫu vị trí Thủy Phủ Thần Nữ tại đền Hàn Sơn. Từ đó, ngôi đền trở thành một trong những đền thờ Mẫu Thoải nổi tiếng nhất trong khu vực.

Lần thứ tư: Mẫu hiển linh hỗ trợ vị vua Lê Thần Tông.

Trong thời đại của vua Lê Thần Tông, mẫu Thoải hiển linh phù âm đã giúp người dân chống lại lũ lụt và đuổi đuổi thủy quái khi nước sông Hồng dâng cao bất thường và tràn vào khu vực Yên Phụ. Vì vậy, vua phải tự mình tiến hành lễ Nam Giao (Lễ tế cáo trời đất) để cầu sự trợ giúp từ các vị thần linh.

Văn cầu nguyện Mẫu Thoải

Nam mô a di đà phật !

Nam mô a di đà phật !

Nam mô a di đà phật !

Con thành tâm kính lạy:.

  • Đức Ngọc Hoàng Huyền Thượng đế.
  • Đức Đệ nhất thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh công chúa,.
  • Đức Đệ nhị thượng thiên cao sơn triều Mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương.
  • Đức Đệ tam thoải phủ Xích Lân Long Nữ Công Chúa.
  • Đức Đệ tứ khâm sai quyền cai bốn phủ.
  • Tứ phủ vạn linh.

Hôm nay là ngày …………………..

Tín chủ con là ……………………..

Ngụ tại:…………………………….

Cùng tất cả thành viên trong gia đình cùng đến trước phủ/đền/điện….. Gập tay kính lễ và cúi đầu vọng bái. Kính dâng các vật lễ, chúng con thành tâm mong các ngài ân xá và bảo trợ cho gia đình chúng con có sức khỏe, trẻ con được an lành, được trọn vẹn sự bình an, mãi mãi được bình an, mong được tài vận thịnh vượng, mong được may mắn thịnh lộc, mong được an lành thịnh an.

Nam mô a di đà phật! (3 lần).

Văn khấn Mẫu Thoải là một phần quan trọng trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, được thực hiện nhằm tôn vinh và cầu nguyện cho Mẫu Thoải - nữ thần bảo hộ gia đình và mang lại may mắn, sức khỏe cho mọi người.

Có thể bạn quan tâm: Đền Mỏ Than thờ Mẫu Thượng Ngàn ở Tuyên Quang

Đền thờ Đức Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ

Đền thờ thánh Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ có nhiều người tới thăm, nhưng hầu hết là do lòng thành kính của người dân hoặc vì địa điểm nằm ở cửa sông cửa biển, không có nhiều dấu tích của Mẫu vì Mẫu không xuất hiện trên trần gian. Có thể kể đến những nơi nổi tiếng như:

  • Đền Mẫu Thoải Hàn Sơn ở huyện Hà Trung, Thanh Hóa, tại bến Đò Lèn. Đền Hàn Sơn là ngôi đền thờ Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ nổi tiếng thần thiêng nhất xứ Thanh. Năm 1992, đền đã được chính quyền Nhà Nước công nhận và xếp hạng.
  • Đền Mẫu Thoải ở thị xã Lạng Sơn, gần sông Kì Cùng.
  • Đền Dầm tại thôn Xâm Dương, xã Ninh Sở, Thường Tín, Hà Nội. Đây là một ngôi đền nổi tiếng thờ Mẫu Thoải Phủ liên quan chặt chẽ đến câu chuyện Mẫu giúp Hưng Đạo Đại Vương đánh bại quân xâm lược, được vua trọng thưởng cao quý.
  • Ngoài ra còn một số ngôi đền khác: Đền Cửa Sông, Đền Bà Áo Trắng, Đền Cái Lân, Đền Mẫu Thoải Lạng Sơn.

Tiệc họp mặt Thánh Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ

Ngày lễ Mẫu Thoải diễn ra vào ngày 10 tháng 6 âm lịch, thường được tổ chức trọng thể nhất tại Đền Mẫu Thác Hàn Sơn.

Thuận với sự phát triển của công nghệ thông tin và viễn thông, cùng với sự phổ biến của internet, đã tạo ra một sự thay đổi to lớn trong cách mà chúng ta giao tiếp và tiếp cận thông tin. Trước đây, để có thể có được thông tin, chúng ta phải dựa vào các nguồn thông tin truyền thống như sách, báo, và truyền hình. Tuy nhiên, với sự phát triển của internet, chúng ta có thể dễ dàng truy cập vào thông tin từ khắp nơi trên thế giới chỉ trong vài giây. Điều này đã tạo ra một sự thu

Cung văn khi đưa lễ về Mẫu Thoải chủ yếu được sử dụng để hát cầu nguyện trong các dịp kỷ niệm Mẫu thánh.

Trịnh Nam biên doành khuyên lai láng.

Nguyệt lầu-lầu sai rạng Nam minh

Vốn xưa Thủy quốc Động đình,

Có Tiên thánh nữ giáng xinh đền Rồng.

Đức gồm vẹn công dung ngôn hạnh.

Nét nhu mì vốn tính thiên nhiên;

Dung nhan khác giá Thần Tiên.

Đã đành lệ thủy chơi miền non côn.

Hằng chầu trực kim môn ngọc điện

Duyên sắt cầm chưa định nơi nao;

Chúa từ thời tiết thanh tao.

Giớ Đằng vương các thư trao dưới màn.

Dưới Thủy quan có nhà lệnh tộc.

Vốn con dòng danh ốc Kinh Xuyên;

Vốn xưa vây cánh nhà truyền.

Thao mai nàng ấy tạm quyền tiểu tinh.

Chí bình sinh phù đời giúp nước.

Ơn Cửu trùng phó thác bên giang;

Mảng danh Công chúa phi phương,

May nhờ lá thắm kết vương tơ hồng.

Trên Vương phụ có lòng lân mẫn,

Cho đôi người duyên phận sánh nhau;

Chúa từ kết ngãi Trần Châu.

Đã đành núi thẳm vực sâu khôn nài.

Kết duyên hài trăm năm phối thất.

Đạo cương thường nhiệm nhặt tóc tớ;

Cùng nhau chưa mấy nắng mưa.

Bỗng đâu ra sự thiên cơ quải người.

Trách Thao Mai ra lòng giáo giở.

Giả đầu thư làm cớ gieo oan.

Kinh Xuyên chẳng xét ngay dan.

Giá vàng nỡ để lầm than bao đành.

Trên dương thế một mình vò võ.

Sớm khuya cùng núi cở ngàn cây;

Đèn trăng chiếu đá màn mây.

Dưỡng thân hoa cỏ, bạn bày trúc mai.

Thường vãng lai thanh sơn tú thủy,

Lốt đại sà tượng thể ngư long;

Có khi biến tướng lạ lùng.

Mày ngài yểu điệu má hồng phi phương.

Có phen nhớ gia-nương dòi-dọi.

Mặt rầu rầu dạ rối châu sa;

Có khi nương bóng hằng nga.

Tưởng bề phu phụ xót xa muôn phần.

Có phen trách lòng quân bội bạc.

Nghe ai làm chếch-mác duyên ai!

Có phen liễu ủ đào phai.

Phận đành nước chẩy hoa chôi lỡ làng.

Có phen tưởng giáy sương giãi nguyệt.

Bảo than phàm mong quyết về không;

Có phen giãi nắng non sông.

Tưởng về nhiều nỗi hình dong võ-vàng.

Bốn bề những hổ lang ác thú.

Vật đều cùng mến Chúa hôm mai

Đua nhau trăm giống ngàn loài.

Dâng hoa cúng quả chẳng nài công phu

Vẹn mười thu giãi giàu sương nắng

Tin cá chìm nhạn vắng khôn hay;

Tấc niềm nhiều nỗi riêng tây.

Ai ngờ con Tạo vẫn soay cớ trời.

Trên dương thế có người ho-sĩ.

Văn tú tài Liễu Nghị là tên;

Trẻ thơ nhờ âm xuân huyên,

Sôi kinh nấu sử hằng chuyên việc mình.

Thời gặp thuở thần-kinh hội-thí,

Dậm đường trường Liễu Nghị bước ra;

Vũ môn mong nhảy đợt ba,

Ai ngờ con Tạo sui ra quải người.

Bây giờ đã tới nơi non quạnh,

Ác ban tà sương lạnh trời hôm;

Bốn bề hoa cỏ xanh um,

Trước ngàn liễu ủ, sau chòm đào phai.

Lòng quân tử đeo đai cảnh vật,

Thấy Chúa ngồi tư cách dung nhan;

Má hồng châu lệ chứa chan,

Nỉ non hòa nói hòa than một mình.

Chàng trông thấy tâm tình cảm cách,

Chúa ngập ngừng nhủ khách rằng cây:

“Sơn lâm rừng vắng chốn này,

Cớ sao quân tử tới đây lạc loài?

Ngày hồ đã trăng soi ác lặn,

Chàng hãy còn thơ thẩn cớ sao?”

Thưa rằng: “hàn sĩ chí cao,

Mười năm đèn sách công lao chuyên cần;

Hội khoa xuân hiềm chưa gặp gỡ,

Tưởng duyên này cắc cớ vì đâu?”

“Dám xin kết ngãi trần châu,

Kẻo lòng quân tử gieo cầu dưới trăng>”

Chúa nghe nói dùng-dằng khôn siết,

Đoái nhủ chàng”Cả quyết sao nên?

ta nay người dưới Thủy Tiên,

Nghiêm từ sớm định kết duyên dai -kỳ.

Khăng khăng giữ đạo tùy sau trước,

Chẳng ngờ chàng tính nước lòng mây”;

“Bỗng không bốc lửa bỏ tay,

Gieo oan một phút bắt đầy mười đông.

Cạy quân tử tin thông họa nả.

Sự duyên này dám há đơn sai.”

Chàng rằng: “Nguyện được như lời,

Đã đành bể rộng sông dài quản đâu”.

Nhờ đèn nguyệt đêm thâu bóng thỏ,

Giãi tấc lòng núi cỏ non xanh;

hàn-lâm nghe mảng tiếng kềnh,

Kim-ô bóng đã lộ hình ra đâu.

Chúa hiềm nỗi bấy lâu oan ức,

Phó kim thoa một bức thư phong.

VẬY CÓ THƯ RẰNG:

Nữ tiên thủ bút, con bái lạy vua quan: thân nữ nhi phận gái hồng nhan; đã sinh cửa quyền môn quý tôc. Tam niên dưỡng dục; phụ tử tình thâm. Khi cả khôn duyên bén sắt cầm; khăng khăng giữ tòng phu cho phải đạo. Trách bà Nguyệt lão; khéo quải duyên ai! Vì tiểu tinh là cái Thao-Mai; Đầu thư giả làm ra oan trái. trách chàng cả dạ; nghe đứa tà dan. Bảo cho con nết ở đa đoan, đem đầy chốn rừng xanh núi cỏ. Một mình vò võ, nào có ai hay. Ngày gió đưa làm bạn với cỏ cây; đêm trăng bạc biết cùng ai năn nỉ. Bỗng đâu nho sĩ, bước đến thẩn thơ. Nguyệt ta-tà thẫn-thẫn thờ-thờ; Nghĩ nông nỗi dừng chân lỡ bước. Trước sau sau trước, mượn bút thay lời. Chiếc thoa tin với bức thư này; dẫu nghìn dậm công lênh đừng có tiếc. vu oan một tiếng, vắng vẻ mười đông. Sự soay vần đã có thiên công; thư một bức đôi vừng nhật nguyệt. Sự tình con xin kể hủy chung.

Nhủ chàng ra mãi bể Đông,

Tới đâu là bóng ngô-đồng cây cao;

lấy kim thoa gõ vào cây ấy,

Dưới Thủy tề nghe thấy chẳng lâu;

Phòng khi ứng hiện nhiệm mầu,

Hẹn chàng thưa gửi gót đầu đinh ninh.

Chàng quân tử tâm tình sau trước,

Dạ ngùi ngùi chân bước đường thông;

Bể nào lai láng xa trông,

Nửa nỗi Chúa, nửa mòng sự duyên.

Sông vân hán bằng miền Thủy phủ.

Tới ngô-đồng tay gõ một thôi;

Tự nhiên nổi trạn phong lôi,

Giữa dòng nuowvs chảy có đôi bạch sà.

Chàng trông thấy sự đà ứng hiện,

Mới hay lời Chúa phán phân minh;

Bạch sà thoắt xuống Động đình,

Bách quan rẽ nước giàng xanh rước chàng.

Rước chàng xuống đèn vàng Thủy phủ,

Thấy triều thần văn võ đôi bên;

Tiêu thiều nhạc táu dưới trên,

Tả biên ngư mục, hữu biên bạch sà.

Kim quy sứ vào tòa ngọc bệ,

Mới phán đòi Liễu Nghị vào trong;

Chàng bèn dâng bức thư phong,

Phụ vương trông thấy trong lòng quặn đau.

Trách Kính Xuyên cơ cầu độc dữ,

Mới đòi chàng Hoảng tử Xích Lân;

Phán rằng: Chúa phải gian truân,

Con vua rước xuống Thủy cung chớ chày

Lời Bương phụ phán ngay lập tức,

Sai các quan hết sức thần thông;

Chiêng kêu, cờ phất, trống rung,

Khắp hòa thế giới đều cùng mênh mông,

Bốn phương trời mưa rong chớp giật,

Quỷ cùng tờ giéo giắt mọi nơi;

Rước Chúa về tới long ngai,

Tội Kính Xuyên với Thảo Mai luận đầy,

Công cán này ai bằng Liễu Nghi,

Sắc phong làm Quốc-tế Thuy quan;

Chàng từ bái lệnh thiên nhan,

Duyên ưa phận đẹp sắc ban trọng quyenf.

Duyên thiên công bày yên thuở trước,

Người phàm trần lại được bén tiên;

Chàng từ kim cải kết duyên,

Có cơ trí tuệ, có quyền anh linh

Dầu ai có bệnh cùng khí huyết,

Lập đàn len Chầu hát lại tha,

Dầu ai dâng tiến hương hoa,

Tiền tài lưu loát, cửa nhà khang ninh.

Dầu ai ai dốc lòng thành phụng bái,

Phúc đến nhiều lộc lại đề đa;

Toàn gia con cháu vinh hoa,

Mãn đường phu quý trẻ già bình an.

Chữ rằng: Thánh giáng lưu ân!

Thần giáng lưu phúc, thiên xuân thọ trường!


Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *