Luật Hôn Nhân Công Giáo và những điều cần biết về Luật Hôn Nhân Công Giáo. Phần cuối bài viết về Luật Hôn Nhân Công Giáo sẽ có những câu hỏi và trả lời của các Cha về Luật Hôn Nhân Công Giáo. Những câu hỏi được quan tâm nhiều nhất về Luật Hôn Nhân Công Giáo ở phần cuối bài viết.
Thông tin dưới đây do Lời Phật tìm hiểu nếu có bất cứ sai sót nào xin góp ý qua phần liên hệ.
Ý NGHĨA CỦA ĐỀU HÔN
Người là hình ảnh của Đấng Tạo Hóa
Thiên Chúa đã tạo ra con người theo hình tượng của Ngài (St 1, 26-27); bởi tình yêu, Thiên Chúa đã cho con người bước vào cuộc sống với sứ mệnh của tình yêu vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4,8). Khi Thiên Chúa tạo ra con người có nam và nữ theo hình tượng của Ngài, Thiên Chúa đã ghi dấu ở đó sứ mệnh và khả năng và trách nhiệm để mời gọi con người sống yêu thương và hòa nhập theo Hình ảnh Tình Yêu và Hòa nhập của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tình yêu thương đã trở thành bản chất và bẩm sinh của con người. Con người có linh hồn biểu hiện qua cơ thể, và được mời gọi sống yêu thương biểu hiện con người là đỉnh cao của quá trình sáng tạo của Thiên Chúa đối với tất cả tạo vật có hình thù. Con người được sinh ra từ lời mời gọi để tồn tại có nam và có nữ, bình đẳng và được sáng tạo theo hình tượng của Thiên Chúa.
Xuất xứ của Hôn nhân
Cộng đồng Vatican II thông qua Hiến chế Mục vụ của Giáo hội trong thế giới ngày nay đã xác định: “Đấng Sáng tạo đã thiết lập và ban những quy tắc riêng cho cuộc sống chung thân mật và cho cộng đồng tình yêu vợ chồng. Cuộc sống đồng hành này được xây dựng thông qua giao ước hôn nhân, tức là sự đồng ý cá nhân không thể thay đổi. Như vậy, thông qua hành động nhân văn, trong đó hai vợ chồng tự hiến cho nhau và chấp nhận lẫn nhau, nhờ sự ơn phước của Thiên Chúa, một cơ cấu vững chắc phát sinh có giá trị trước mặt xã hội. Vì lợi ích của cặp đôi, của con cái và của xã hội, sợi dây liên kết thánh thiện này không phụ thuộc vào ý muốn của con người. Chính Thiên Chúa là Đấng Sáng tạo Hôn nhân, ban phước những lợi ích và mục tiêu khác nhau (GS 48); Thông điệp Humanae Vitae của Đức Giáo Hoàng Phaolo VI xác nhận: “Hôn nhân không phải là sự ngẫu nhiên hay là kết quả của sự biến đổi của các lực lượng vô tri trong tự nhiên. Hôn nhân là kết quả của sự sắp đặt khôn ngoan của Đấng Sáng tạo để thực hiện ý định yêu thương của Ngài giữa nhân loại”.

Mục tiêu của Hôn nhân
Theo Humanae Vitae 8: ”Trong hôn nhân, vợ chồng hiến dâng cơ thể cho nhau bằng một hành động đặc biệt và giới hạn giữa hai người, để hòa hợp với nhau trở thành một, với mục đích giúp đối tác phát triển và hợp tác với Thiên Chúa để tạo ra và giáo dục những sinh linh mới” ”Sự kết nối chặt chẽ vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung thành và đòi hỏi hòa hợp với nhau không thể tách rời” (GS 48). Từ đó, chúng ta có thể thấy Hôn nhân theo Giáo hội gồm có hai mục đích Gl 1055 §1: a. Giao ước hôn nhân tự nhiên, hướng về lợi ích của cả hai bên; b. Sinh sản và giáo dục con cái.
Theo Hiến chế Gaudium et Spes: Bởi giao ước hôn nhân, người đàn ông và người phụ nữ “không còn là hai, mà là một thịt thể” (Mt 19,6) phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau thông qua sự kết hợp chặt chẽ trong tâm hồn và hành động của họ, trải nghiệm và hiểu được sự đoàn kết với nhau mỗi ngày càng sâu sắc hơn. Hôn nhân rất quan trọng đối với “sự liên tục của nhân loại, sự phát triển cá nhân, sự phát triển toàn diện trong cuộc sống của mỗi thành viên trong gia đình. Phát triển đối với phẩm chất, sự vững chắc, an lành và thịnh vượng của bản thân và xã hội”, hôn nhân giúp con người phát triển bản thân, phát triển gia đình và xã hội, đạt được hạnh phúc toàn diện của con người.
Hôn phối Công Giáo là Bí Tích.
Trong Giáo huấn của Giáo hội qua văn kiện của Công đồng Vaticano II trong Hiến chế Gaudium et Spes : “Chúa Kitô ban cho tình yêu muôn hình ấy nhiều ơn phúc, một tình yêu phát sinh từ nguồn tình yêu Thiên Chúa và được hình thành theo mô hình của Chúa Kitô và Giáo Hội. Thực sự, giống như lúc xưa Thiên Chúa đến gặp gỡ dân Ngài thông qua một hiệp ước yêu thương và trung thành, ngày nay Đấng Cứu Thế, Bạn Trăm Năm của Giáo Hội, cũng đến với đôi vợ chồng qua Bí Tích Hôn Phối. Người ở lại với họ để hai vợ chồng cũng mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng cách tự hiến cho nhau như Người đã yêu thương Giáo hội và đã hy sinh vì Giáo hội…Bởi vì vậy, vợ chồng Kitô hữu được củng cố và như được thánh hiến bằng một bí tích đặc biệt để được nhận các trách nhiệm và giá trị của cuộc sống hôn nhân của họ. Nhờ sức mạnh của bí tích này, họ được truyền cảm hứng từ tinh thần Chúa Kitô để hoàn thiện bổn phận hôn nhân và gia đình của họ, qua đó cả đời sống của họ được truyền cảm hứng từ đức tin, hy vọng, tình yêu và ngày càng tiến gần hơn đến sự trọn vẹn riêng biệt của họ và sự thánh hóa lẫn nhau: và bởi vì thế, cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa” (GS 48). Giáo luật điều 1055 §2 đã xác nhận: Chúa Kitô đã nâng cao hiệp ước hôn nhân giữa hai người đã được Rửa tội lên hàng Bí tích.
Chúng ta vừa tìm hiểu khái quát về Hôn nhân dưới ánh sáng Tin Mừng và Giáo Huấn của Giáo Hội Công Giáo. Hội Thánh hiện nay có những quy định Giáo luật liên quan đến hôn nhân bao gồm 2 loại:
– Loại 1: Những điều không thể thay đổi vì là Luật của Thiên Chúa (Luật Mạc Khải hay Tự nhiên);
– Loại 2: Những qui định có thể thay đổi vì căn cứ theo hoàn cảnh xã hội dân sự hay văn hóa và những hướng dẫn mục vụ cần thiết cho sinh hoạt của cộng đoàn.
Bộ Luật Giáo 1983 của Giáo Hội Latinh đã đề cập đến những quy định về loại 1 “Luật của Thiên Chúa (Tự nhiên)”, và một số hướng dẫn cho quy định về loại 2 cho Giáo hội địa phương. Chúng ta nhận thấy những quy định Luật Giáo và Mục vụ đều quy về Ba điều kiện chính để việc kết hôn được tiến hành tốt đẹp.
1. Xác định đôi bạn có khả năng kết hôn và không có ngăn trở
2. Đôi bạn hoàn toàn tự do và tự nguyện.
3. Cử hành kết hôn theo thể thức Phụng vụ và Giáo luật qui định.
Các quy định về tiến hành Hôn nhân của từng Giáo phận đều xuất phát từ Giáo luật, từ luật dân hiện hành và từ tình hình hoàn cảnh riêng của từng giáo phận. Giám mục Giáo phận có trách nhiệm đặt ra các thủ tục tiến hành hôn nhân, có quyền chứng hôn cho các linh mục. Ngài cũng có quyền ban luật và miễn chuẩn nhiều quy định giáo luật trong Giáo phận của mình.
Có thể bạn quan tâm.
Tượng Công Giáo Cao Cấp – Ảnh Tượng Công Giáo đẹp, có hồn, xuất khẩu
Hội đồng Giám mục Việt Nam ủng hộ 3 Tỷ đồng vào Quỹ vắc-xin phòng Covid-19
TRƯỚC KHI THỰC HIỆN NỀN TẢNG HÔN NHÂN
Liên quan đến những người có ý định tiến tới hôn nhân
Quyền kết hôn và lập gia đình là một quyền căn bản của con người được Giáo luật và Dân luật tôn trọng và bảo vệ. Do đó, những ai không bị luật cấm đều có quyền kết hôn, tuy nhiên chúng ta cần phải xem người đó có liên quan tới những qui định của giáo luật:
1. Về tuổi tác : Điều luật 1083 §1 hạn định tuổi kết hôn là người nam tròn 16 tuổi, người nữ tròn 14 tuổi, tuy nhiên §2 trao cho HDGM quyền ấn định tuổi phù hợp với quốc gia, nền văn hóa nước đó. Tại Việt-Nam, HDGM VN ấn định người nam 20 tuổi và người nữ 18 tuổi kết hôn hợp thức; nếu có trường hợp đặc biệt phải xin phép Đấng Bản Quyền Giáo phận.
2. Về sức khỏe: Người nam và người nữ phải là những người lành mạnh và trưởng thành về tâm sinh lý. Trên nguyên tắc dù người nam hay người nữ mắc bệnh gì cũng có quyền kết hôn, với điều kiện là người phối ngẫu đã được thông báo trước và vẫn đồng ý kết hôn (bệnh xã hội…). Tuy nhiên, với một người không có khả năng sống đời vợ chồng (như điên khùng hay bất lực giao hợp vĩnh viễn) thì tiêu hủy hôn nhân (đ.1084)
3. Về sự tự do kết hôn : Các đương sự phải được tự do chọn lựa kết hôn, có nghĩa tự do chọn lựa vợ chồng. Mọi hình thức gây áp lực tâm, thể lý ảnh hưởng đến sự tự do kết hôn đều vi phạm nhân phẩm con người, và làm cho hôn nhân vô hiệu. Việc đính hôn hay lễ ăn hỏi không nhất thiết buộc phải kết hôn, mà chỉ có quyền đòi đền bù thiệt hại nếu việc kết hôn không thành.
4. Về huyết tộc : Hội Thánh cấm kết hôn với người có liên hệ huyết tộc trực hệ (họ máu hàng dọc) dù pháp lý hay tự nhiên; hay có liên hệ bàng hệ (họ máu hàng ngang) đến đời thứ bốn: sự kết hôn vô hiệu (đ.1091). Như vậy, không ai có quyền kết hôn với con ruột, con nuôi, con ngoại hôn của mình; không được kết hôn với cháu nội hay cháu ngoại, với anh chị em ruột của mình.
5. Về liên hệ hôn nhân: Các đương sự phải là những người chưa kết hôn hoặc đã kết hôn mà người phối ngẫu đã chết. Không được kết hôn với họ hàng trực hệ của người phối ngẫu đã chết. Giáo hội cũng cấm việc kết hôn với người họ hàng trực hệ của người đã sống chung như vợ chồng hay tư tình công khai với mình.
Người ly thân và ly dị không được tái hôn (vì dây hôn phối vẫn còn tồn tại bao lâu người phối ngẫu chưa chết hoặc chưa được tháo gỡ dây hôn phối vì hà tỳ trong hôn nhân). Người còn vướng mắc nghĩa vụ liên quan đến hôn nhân (không chu cấp cho con ngoại hôn sinh kiện cáo), có thể bị Giáo hội từ chối, chưa cho phép kết hôn.6. Về sự hiểu biết liên quan tới hôn nhân: Các đương sự phải hiểu rõ hôn nhân là gì, các điều kiện cần phải có, ý nghĩa của lời ưng thuận, các nghĩa vụ và quyền lợi của đời sống vợ chồng. Chúng ta đều biết, sau tuổi dạy thì có thể suy đoán là có sự hiểu biết này.
7. Về tôn giáo : Tôn giáo ảnh hưởng rất quan trọng tới đời sống hôn nhân, nhất là khi quan niệm về hôn nhân giữa hai tôn giáo khác nhau (công nhận đa thê, ly dị). Giáo hội Công giáo mong ước những người cùng niềm tin kết hôn với nhau; đồng thời cũng cho phép kết hôn với người khác đạo hoặc cùng Kitô giáo nhưng không hiệp thông với Hội Thánh Roma. Hôn nhân với người chưa được Rửa tội mà không có phép chuẩn thì không có giá trị trước mặt Giáo hội. Những người đã thề hứa sống độc thân (phó tế, linh mục và tu sĩ khấn trọn đời) phải xin miễn chuẩn đặc biệt để kết hôn thành sự.
8. Về thủ tục: việc kết hôn Công giáo phải được Rao công khai ở những nơi đương sự sống thời gian lâu dài. Tại Việt-Nam, phải rao trong Nhà thờ xứ Ba tuần, (việc rao 2 lần hay 1 lần tùy quyết định của Giám mục Giáo phận). Trong mục vụ, cần yêu cầu đôi bạn phải những giấy tờ sau:
– Giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm sức mới cấp chưa quá sáu tháng.
– Hộ khẩu và chứng minh nhân dân (nếu linh mục không biết mặt đương sự)
– Giấy giới thiệu của Cha xứ mỗi đương sự, nếu ở giáo xứ khác chuyển đến xác nhận tình trạng độc thân của đương sự.
– Khi quyết định ngày chứng hôn theo Giáo luật, có giấy Đăng ký kết hôn dân sự.
– Nếu được nhờ chứng hôn, phải có giấy Ủy quyền của Cha có trách nhiệm và giấy chứng nhận đã học giáo lý căn bản và giáo lý hôn nhân.
Về phía những người sở hữu đàn gia súc
Các chủ chăn tôn trọng quyền được kết hôn theo nghi thức tôn giáo của các bên liên quan, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ kết hôn theo đúng quy trình của tín ngưỡng; đồng thời hỗ trợ họ tìm hiểu về giáo lý hôn nhân và giúp đỡ họ thêm về đời sống đức tin trong giai đoạn chuẩn bị bước vào cuộc sống hôn nhân.
>> TƯỢNG ĐỨC MẸ MARIA ĐẸP.
>> TƯ VẤN MẪU BÀN THỜ CHÚA ĐẸP.
Các linh mục (đặc biệt cha xứ hoặc cha phụ trách) có bổn phận giúp đỡ đôi bạn và chuẩn bị nghi thức hôn phối như sau:
– Giúp họ xác định niềm tin Kitô giáo và chuẩn bị cho họ có một đức tin trưởng thành. Nếu họ chưa được lãnh Bí tích Thêm sức, phải lo liệu cho họ nhận Bí tích này trước khi kết hôn, vì họ sẽ trở nên chứng nhân đức tin và giáo dục đức tin cho con cái. Lưu ý vị chủ chăn KHÔNG được phép cử hành hôn phối cho người đã công khai chối bỏ đức tin Kitô giáo.
– Giúp họ ý thức về hôn nhân và chuẩn bị đảm nhận những nghĩa vụ vợ chồng và cha mẹ trong gia đình Kitô giáo.
– Phải điều tra hôn phối về đôi bạn, để chắc chắn đôi bạn không có ngăn trở gì. Rất mong các Cha thuộc các Giáo phận, giáo xứ khác nhau có bổn phận giúp đỡ lẫn nhau vì luật, vì trách nhiệm, vì tình huynh đệ cũng như tạo nên hình ảnh vị mục tử nhân hiền, nhẫn nại cho các đôi bạn chuẩn bị bước vào Hôn nhân.
– Chuẩn bị việc cử hành hôn nhân tốt đẹp theo quy tắc Phụng vụ.
Về mặt gia đình và cộng đồng Kitô hữu
Gia đình cần tôn trọng quyền kết hôn và quyền tự do lựa chọn bạn đời của các thành viên; gia đình có nhiệm vụ giáo dục và hướng dẫn chứ không được quyết định thay đổi con cháu mình.
Cộng đồng tín hữu sẵn lòng hỗ trợ những người muốn kết hôn, nếu có bất kỳ trở ngại nào, phải báo cáo lại với cha xứ hoặc cha phụ trách hôn nhân. Cộng đồng sẽ tham gia trong ngày cử hành hôn nhân để làm chứng và cầu nguyện cho cặp đôi mới cưới.
KHI THỰC HIỆN LỄ CƯỚI BÍ TÍCH HÔN NHÂN
Về những vấn đề chính liên quan
Đôi bạn cần chuẩn bị tâm hồn để tham dự nghi thức Hôn phối như một nghi lễ thánh đến Thiên Chúa. Giáo hội khuyên họ nhận Bí tích Hòa Giải và Thánh Thể trong dịp Hôn lễ (Trước đây, luật giáo yêu cầu phải thú tội với Cha xứ của mình trước ngày cưới).
Trong lễ kết hôn, chính hai bạn là người chịu trách nhiệm tiến hành giao ước thánh. Các bên phải có mặt và tự trả lời đầy đủ các câu hỏi khi được hỏi về quyền tự do kết hôn, về trách nhiệm yêu thương và tôn trọng lẫn nhau suốt đời cũng như trách nhiệm sinh và giáo dục con cái theo quy định của Chúa Kitô và Hội Thánh. Lời đồng ý kết hôn cũng phải được mỗi người diễn tả (bằng lời nói hoặc cử chỉ) một cách rõ ràng với đầy đủ nội dung là chấp nhận làm vợ chồng, trung thành với nhau trong mọi tình huống, yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời.
Nếu các bên không thể tự mình diễn đạt đầy đủ sự đồng ý, linh mục có thể đặt câu hỏi để từng bên xác nhận sự đồng ý của mình (người câm, không biết chữ, không thể nói thành lời…).
Về phía những người sở hữu đàn gia súc
Việc chứng hôn cho giáo dân là một trách nhiệm do chức vụ và lòng nhân ái của người lãnh đạo. Thông thường, giáo xứ tại một trong hai nơi cư trú (có thể ưu tiên cho giáo xứ của phía gái, nhưng không bắt buộc) có trách nhiệm chuẩn bị hồ sơ, tiến hành điều tra các trở ngại, và giảng dạy về giáo lý căn bản, giáo lý hôn nhân và chứng hôn. Thủ tục và chứng hôn có thể do một linh mục khác thực hiện, sau khi có sự đồng ý bằng văn bản của một trong hai giáo xứ hoặc bên nam hoặc bên nữ. Trong trường hợp cặp đôi muốn kết hôn khác đạo, hoặc theo một phép chuẩn khác, người muốn kết hôn (đồng giáo) PHẢI tự viết đơn xin có xác nhận của giáo xứ và gửi lên Đấng có thẩm quyền BAN PHÉP CHUẨN trong Giáo phận. Trong những trường hợp phức tạp, người lãnh đạo sẽ tham khảo ý kiến của Đức Giám Mục.
Sau khi kết hôn, Cha xứ phải GHI nhớ Sổ Hôn nhân của giáo xứ (có thể là 2 cuốn sổ, để một cuốn gửi lên Văn phòng Tòa Giám mục); cha xứ cũng gửi giấy chứng thư Hôn phối để ghi vào sổ Rửa tội nơi các đương sự đã nhận Bí tích Rửa tội.
Cha xứ phải tiến hành nghi lễ Hôn nhân theo quy định của Phụng vụ Thánh được Giáo hội chấp thuận (Khi chứng hôn cho đôi bạn không cùng đạo – không được chứng hôn trong Thánh lễ). Khi mời một linh mục khác chứng hôn, người này phải hiểu là chứng hôn theo SỨC MẠNH ỦY QUYỀN của cha xứ nơi tiến hành hôn phối; do đó, cha xứ nơi cư trú phải chấp nhận mọi trách nhiệm.
Về mặt gia đình và cộng đồng tín hữu
Hôn nhân không chỉ liên quan đến đôi bạn mà còn là một hoạt động quan trọng của gia đình và cộng đồng tín hữu. Do đó, nghi thức kết hôn phải được tiến hành tại Nhà thờ xứ, để gia đình và cộng đồng tham gia vào lễ cưới và chúc mừng cặp đôi mới cưới. Nếu có lí do hợp lý, Đức Giám Mục có thể cho phép tổ chức ở nơi khác; nếu không, việc tổ chức lễ cưới tự ý sẽ bị coi là bí mật và không có giá trị (như là cưới trên du thuyền, trong vườn hoa… Hoặc dưới đáy biển).
Nghi thức kết hôn phải được tổ chức công khai, với sự chứng kiến của một linh mục đại diện cho Giáo hội Công giáo và hai nhân chứng đại diện cho cộng đồng tín đồ. Thông thường, những nhân chứng này là người theo đạo, một nam và một nữ, nhưng không nhất thiết phải như vậy, điều quan trọng là hai nhân chứng này phải có đủ tư cách pháp lý để làm chứng.
Có thể bạn quan tâm.
Hội Thánh Truyền giáo Phục Hưng là Nạn nhân của Virus, Hãy cảm thông chia sẻ và cầu nguyện
Các mối và điều răn | Kinh mười điều răn | Kinh sáu điều răn …
Câu chuyện lạ Công Giáo: Đức Mẹ Măng Đen – KonTum
SAU KHI KẾT HÔN
Việc kết hôn đã tạo ra một liên kết, một Hiệp ước thánh, độc nhất và lâu dài ràng buộc hai người. Họ đã cam kết sẽ yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời; tình yêu đó không được chia sẻ cho bất kỳ ai khác. Họ cam kết hợp tác để xây dựng một gia đình hạnh phúc, có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau trong tất cả những gì liên quan đến cuộc sống chung của vợ chồng. Họ chịu trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa và Giáo Hội để chấp nhận và bảo vệ sự sống con người, nghĩa là nhiệm vụ sinh sản, chăm sóc và giáo dục con cái theo giáo huấn của Giáo hội. Họ được mời gọi để trở thành thánh trong cuộc sống vợ chồng và xây dựng Dân Chúa qua hôn nhân và gia đình, đó là:
– Chu toàn các bổn phận trong Giáo hội và xã hội với tư cách là Kitô hữu và là công dân.
– Chu toàn bổn phận đối với cha mẹ và gia đình hai bên.
– Chu toàn bổn phận đối với nhau và đối với con cái.
Các vị chủ chăn có trách nhiệm tiếp tục hỗ trợ họ, đặc biệt là trong cuộc sống của Giáo xứ, giáo họ do ngài quản lý. Cha xứ là người được Giáo hội chỉ định làm người tư vấn cho họ trong cuộc sống đức tin và đạo đức. Khi các gia đình gặp khó khăn, ngài có trách nhiệm cầu nguyện cho họ, và có thể hướng dẫn họ để hòa giải, tha thứ và chấp nhận nhau khi gặp phải những tình huống khủng hoảng; và hướng dẫn họ đến Tòa án Hôn phối Giáo hội khi cần thiết.
Đối với cộng đồng Dân Chúa, sau khi hôn nhân đã diễn ra và hoàn tất các nghi lễ, tất cả mọi người phải thừa nhận rằng hôn nhân đã trở thành sự thật, và sẵn sàng hỗ trợ cặp đôi khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống hôn nhân.
Hướng dẫn cần thiết
Ưu đãi không tuân theo chuẩn hôn nhân khác tôn giáo.
- Đặc ân miễn chuẩn hôn nhân khác tôn giáo (disparatus cultis) là đặc ân của vị Thường Quyền Sở tại như Giám mục Giáo Phận, Lm. Tổng Đại Diện hay Vị linh mục đã được Đức Giám Mục ủy quyền, cho phép tiến hành Hôn nhân theo Giáo luật giữa một người Công giáo và một người chưa Rửa tội.
- Đặc ân miễn chuẩn hôn nhân hỗn hợp (matrimoniis mixtis) là đặc ân của Đức Giám mục Giáo phận cho phép tiến hành hôn nhân theo Luật Giáo giữa hai người đã Rửa tội, nhưng một người thuộc Giáo hội Kitô không đồng thuận với Roma.
- Theo quy định hiện hành của Giáo hội Latinh, việc kết hôn giữa các người thuộc tín ngưỡng khác nhau chỉ được coi là hợp pháp khi có sự chấp thuận rõ ràng từ giáo quyền; còn việc kết hôn giữa các người cùng tín ngưỡng khác đạo chỉ được coi là hợp pháp khi có sự miễn chuẩn bằng văn bản (expressa dispensatio; GL 1086).
Với hai bạn
Họ phải tự mình đến gặp cha xứ để tiến hành thủ tục kết hôn theo quy định của Giáo hội. Nhằm mục đích tìm hiểu và xác định khả năng kết hôn phù hợp lễ và khả năng sống đời vợ chồng theo quy định Công giáo. Hồ sơ cũng giống như hồ sơ cần có giữa đôi bạn công giáo. Tuy nhiên, các Cha xứ, hoặc Cha phụ trách không nhận ĐƯỢC MIỄN CHUẨN HÔN NHÂN KHÁC ĐẠO nếu bên Công giáo không thuộc Giáo xứ hoặc Giáo phận của mình.
Các Cha cũng không được nhận đơn xin miễn chuẩn Hôn nhân khác tôn giáo nếu một trong hai người đã có một hôn nhân tự nhiên, dù đã ly dị phần đời. Trong trường hợp này, chỉ có thể xin Đặc ân Phaolô (theo tôn giáo) hay đặc ân Phêrô (đặc ân Giáo Hoàng để tháo gỡ Hôn phối cũ) để kết hôn.
Đối với hôn nhân kết hợp hoặc khác tôn giáo, bên không theo đạo Công giáo, nếu đáp ứng đủ các điều kiện khác, có thể yêu cầu cha xứ ở nơi cư trú tiến hành thủ tục cho mình. Cần lưu ý, khi điều tra việc kết hôn, linh mục của bên Công giáo phải yêu cầu miễn chuẩn cho người Công giáo thông qua việc liên hệ với linh mục chính xứ ở nơi người không theo đạo Công giáo sinh sống để điều tra và xin phép kết hôn. Sau khi có kết quả điều tra về tình trạng hòa thuận của bên không theo đạo Công giáo, mới tiến hành thủ tục miễn chuẩn và cấp giấy chứng nhận hôn nhân theo quy định của Giáo luật.
Điều khoản để xin miễn tiêu chuẩn
Theo điều khoản giáo luật 1125, Đấng Bản Quyền giáo phận có thể ban phép miễn chuẩn Hôn nhân khác đạo, nêu có lý do chính đáng và hợp lý, nhưng không được ban phép ấy, nếu không hội đủ điều kiện sau đây:
a. Bên Công giáo PHẢI tuyên bố mình sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin và thành thật cam kết sẽ làm hết sức để tất cả con cái được Rửa tội và được giáo dục trong Giáo hội Công giáo;
b. Bên không Công giáo PHẢI được kịp thời thông báo cho biết những điều bên Công giáo PHẢI cam kết như trên, để họ ý thức thật sự về lời cam kết và nghĩa vụ của bên Công giáo;
c. Cả hai bên PHẢI được giáo huấn về những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân mà không bên nào được phép loại bỏ.
Hội Đồng Giám Mục Việt-Nam đã quy định mẫu tờ tuyên bố và cam kết theo yêu cầu của pháp luật, cũng như quy định thể thức thực hiện tại tòa ngoài, thể thức thông báo cho bên không Công giáo và mẫu đơn xin chuẩn Hôn nhân không cùng đạo (1126).
Các Thượng Đế địa phương và những người quản lý linh hồn phải làm gì để giúp đỡ các cặp vợ chồng Công giáo và con cái sinh ra từ hôn nhân đa văn hoá, để họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, và các ngài phải giúp đôi bạn đồng hành với nhau trong cuộc sống gia đình.
Tổ chức lễ Hôn Phối
- Cử hành nghi thức kết hôn “thành sự” phải tuân thủ như Bí tích Kết hôn về Thừa tác viên và hai nhân chứng: phải là một nghi thức công khai; cấm cử hành bí mật, không có nhân chứng. Nếu gặp khó khăn nghiêm trọng ngăn cản việc tuân thủ quy định pháp luật, Đấng Bản Quyền địa phương của Giáo hội Công giáo có quyền miễn chuẩn khỏi việc tuân thủ đối với từng trường hợp, nhưng phải tham khảo ý kiến của Đấng Bản quyền địa phương tại nơi kết hôn và phải tuân thủ một nghi thức công khai nào đó, để kết hôn trở thành sự thật; việc xác định những nguyên tắc này thuộc trách nhiệm của Hội đồng Giám mục (1127§2).
- Không được tổ chức một lễ kết hôn hoặc lặp lại lời cam kết theo một tôn giáo khác (tại cùng địa điểm), trước hoặc sau hoặc cùng lúc với nghi thức hôn phối công giáo.
- Nghi thức kết hôn đa tôn không được tiến hành trong lễ nghi, bởi vì điều này trái với lý thuyết của Thánh thể và Giao ước hôn nhân. Lễ nghi là một nghi lễ của ân sủng, là nghi lễ của sự đồng lòng và lòng tin đồng nhất của tất cả những người theo đạo Kitô. Giao ước hôn nhân là sự kết hợp giữa nam và nữ. Tiến hành hôn nhân theo cách khác trong lễ nghi là tôn trọng tối đa sự không thống nhất cơ bản của hai người trong ngày cưới.
- Nghi thức có thể tổ chức Phụng vụ Lời Chúa trước nghi thức kết hôn, nhưng không được cho phép người không thuộc giáo đường công giáo đọc Lời Chúa.
Kết hôn giữa hai người ngoài đạo công giáo
, Mục sư là một người đứng đầu của một giáo xứ hoặc một nhóm giáo xứ. Mục sư có trách nhiệm lãnh đạo và quản lý các hoạt động tôn giáo của giáo xứ, bao gồm cử hành các nghi lễ và dạy giáo.
Công đồng Tridentino đã xác định rằng mọi hôn nhân, theo quy luật tự nhiên và thiên định, đều lâu dài và không thể tách rời (Conc. Tridentino, sess. XXIV, in DS 1791-1798; 1805,1807)- Hôn nhân giữa hai người “yêu thương” trở thành “mãi mãi”; ai nói ngược bị Vạ.
Bộ Luật Hôn nhân Latinh 1983 xác định lại điều này trong điều 1134: ”Từ cuộc hôn nhân trở thành sự kết hợp giữa những người phối ngẫu nảy sinh một mối liên kết vĩnh viễn và độc đáo tự nhiên…”.
, Ngày lễ Chung tình yêu được tổ chức vào ngày 14 tháng 2 hàng năm. Ngày này, những người yêu nhau thường trao nhau những món quà và thể hiện tình yêu của mình.Trong Giáo hội Việt Nam, ngày kỷ niệm Tình yêu được tổ chức vào ngày 14 tháng 2 hàng năm. Ngày này, những người yêu nhau thường tặng nhau những món quà và thể hiện tình cảm của mình.
Theo năng quyền các xứ truyền giáo (Paolo III, Const. Altitudo divini conssilii, 1 giu 1537, in DS 1497; Pio V, Const. Romani Pontificis, 2 aug 1571, in DS 1983; Gregorio XIII, Const. Populis ac nationibus, 25 gen 1585, in DS 1988); vị Thường quyền Sở tại có quyền ban đặc ân:
– Cho phép người ngoài Công giáo đã kết hôn và ly dị, nay được tái hôn với người Công giáo khác, theo Đặc ân Thánh Phaolô, khi không thể hỏi ý kiến người bạn đời cũ hay khi người này không trả lời.
– Kể cả khi hai vợ chồng ngoài Công giáo này đều trở lại và đã Rửa tội; miễn là sau khi Rửa tội, họ không hề chung sống trở lại (hôn nhân non-consummatum), được phép xin tháo gỡ hôn phối tự nhiên này theo Đặc ân Giáo hoàng
Sử dụng trong Mục vụ
Hôn nhân tự nhiên giữa hai người, theo đạo thờ Ông bà hay Phật giáo, vẫn được Giáo Hội Việt-Nam coi là một sự cam kết suốt đời; dù Giáo Hội không chỉ trích việc họ ly dị theo lương tâm đúng đắn của họ. Do đó, không cần xin phép từ các tôn giáo khác để kết hôn với người đã từng có hôn phối trước, mà người này phải xin theo đạo và xin kết hôn theo Đặc ân Thánh Phaolô (1143-1144).
KẾT LUẬN
Trên đây chỉ là tóm tắt một số quy định pháp lý của Giáo luật và Hướng dẫn phục vụ thông thường có tính tổng quát, nhằm đáp ứng nhu cầu của những cặp đôi kết hôn bình thường. Tuy nhiên, hiện nay sự xung đột trong tình yêu và hôn nhân Công giáo đã gây ra những mâu thuẫn, ly thân hoặc đệ đơn ly dị tại Tòa án. Rất cần có sự tư vấn từ các chủ chăn phục vụ Dân Chúa để giúp các cặp đôi bảo vệ hạnh phúc gia đình và sự kết hợp hôn nhân, cũng như cung cấp lời khuyên khi cần sự hỗ trợ từ Giáo hội về giáo huấn, lời cầu nguyện đồng cảm và hướng dẫn cần thiết.
>> TƯỢNG ĐỨC MẸ MARIA ĐẸP.
>> TƯ VẤN MẪU BÀN THỜ CHÚA ĐẸP.
Theo: TINMUNG.NET.
Các câu hỏi về quy định về hôn nhân công giáo mà được quan tâm nhiều nhất là gì?
Câu hỏi 1. Thưa cha cho con hỏi vì thời buổi này vô sinh rất nhiều nên chuyện lỡ có thai trước trong tình trạng mà 2 người đều là người công giáo học giáo lý xong, có được cử hành lễ cưới hay không ạ. Hay là chỉ được làm phép khác. Và nếu như có thai mà giấu cha xứ để được cưới tội có nặng không ạ. Mong cha giải đáp giúp con với.
1. Giáo lý Hội Thánh công Giáo dạy: Mọi người đã được rửa tội đều được kêu gọi sống khiết tịnh. Kitô hữu đã mặc lấy Đức Kitô, khuôn mẫu của mọi đời sống khiết tịnh. Tất cả các Kitô hữu đều được kêu gọi sống đời khiết tịnh tùy theo bậc sống riêng của mình. Khi lãnh nhận Phép Rửa, Kitô hữu đã cam kết điều khiển sức mạnh tình cảm của mình trong đức khiết tịnh. (Sách GLHTCG số:2348)
Vì thế khi bạn ăn ở với người yêu ngoài hôn nhân phạm hai tội này:
1a- Mê dâm dục là sự ham muốn vô trật tự hay hưởng thụ vô độ khoái lạc tình dục. Khoái lạc tình dục là vô trật tự về mặt luân lý, khi chỉ tìm khoái lạc để hưởng thụ, chứ không nhằm mục đích sinh sản và kết hợp trong tình yêu. (Sách GLHTCG số: 2351)
1b- Gian dâm là quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân giữa một người nam và một người nữ còn tự do. Tội này trái nghịch cách nghiêm trọng với nhân phẩm và tính dục của con người, vốn tự nhiên quy hướng tới lợi ích của đôi phối ngẫu cũng như tới việc sinh sản và giáo dục con cái. Ngoài ra, gian dâm còn là một gương xấu nghiêm trọng, khi làm băng hoại giới trẻ.(Sách GLHTCG số: 2352)2. Giáo luật không có điều khoản nào cấm không cho cử hành lễ cưới vì người phối ngẫu đã có thai trước khi cử hành bí tích hôn phối. Việc có thai trước khi kết hôn không là ngăn trở hôn phối. Tuy nhiên vì lý do mục vụ có nhiều cha sở không cho cử hành lễ cưới nhũng đôi hôn phối đã có thai trước khi kết hôn. Đây chỉ là không cho cử hành lễ cưới chứ không cấm cử hành bí tích hôn phối.
3. Bí tích hôn phối được cử hành qua hai hình thức:
– Hoặc được cử hành trong thánh lễ, chúng ta thường gọi là lễ cưới
– Hoặc được cử hành ngoài thành lễ, chúng ta vẫn gọi nôm na là phép giao Bí tích hôn phối được thành sự không do bởi được cử hành trong thánh lễ, nhưng chính do nghi thức cử hành bí tích hôn phối.
Khi cử hành bí tích hôn phối đòi buộc:
Đôi phối ngẫu không vướng mắc bất cứ một ngăn trở hôn nhân nào. Điều này được điều tra trước khi của hành bí tích. Khi cử hành bí tích buộc tuân giữ nghi thức Hội Thánh qui định (các cha sở đều nắm vũng nghi thức này)4- Bí tích hôn phối được gọi là bí tích kẻ sống, tức là bí tích dành cho những Kitô hữu đang ở trong tình trạng ơn thánh, tức không có tội trọng. Bởi bí tích hôn phối không là một nghi thức dân sự, nhưng là dấu chỉ mang lại ơn thánh hoá “Chúa Kitô ban dồi dào ân phúc cho tình yêu vợ chồng…
Như xưa kia Thiên Chúa đến gặp gỡ dân Ngài bằng một giao ước yêu thương và trung thành; ngày nay Đấng Cứu Thế, bạn Trăm Năm của Hội Thánh, cũng đến với đôi vợ chồng qua Bí tích Hôn phối. Người còn ở lại với họ để hai vợ chồng mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau, như Người đã yêu thương Hội Thánh và đã nộp mình vì Hội Thánh” (MV 48). Như thế, ân sủng được ban trong Bí tích Hôn phối nhằm kiện toàn tình yêu vợ chồng, và kiên cường sự hiệp nhất bất khả phân ly.
Do đó trước khi đôi hôn phối cử hành bí tích buộc phải sạch tội trọng để lành nhận được hiệu quả bí tích mang lại. Do đó trước khi cử hành bí tích hôn phối bạn đến gặp cha giải tội xin ngài giúp đỡ.
Chúc bạn được mọi sự tốt lành
Bàn Thờ Công Giáo nhỏ gọn – Bàn Thờ Công Giáo ở Hà Nội – Mẫu Bàn Thờ Công Giáo treo tường đẹp – Tượng Công Giáo nhập khẩu.
Câu hỏi 2: Thưa Cha, người yêu của con đã sinh con mà chưa kết hôn. Nay con muốn kết hôn với cô ấy, con là người theo đạo công giáo và con đã có đầy đủ tài liệu theo quy định. Nhưng Cha xứ không cho chúng con tổ chức lễ cưới. Thưa Cha vậy thì đúng hay sai? Con phải làm gì?
Hôn nhân Công giáo không kỳ thị màu da, chủng tộc, tuổi tác, hoàn cảnh sống… Nền tảng của hôn nhân Công giáo chính là tình yêu được bày tỏ qua một giao ước giữa hai người nam nữ đã bước vào tuổi trưởng thành và có ý thức về đời sống gia đình. Anh và bạn gái của anh, cho dẫu bạn gái của anh đã có con riêng, đều có quyền cử hành bí tích hôn phối trong Thánh Lễ, nếu anh và bạn gái của anh không mắc một ngăn trở hôn phối nào theo Giáo luật. Giáo luật 1983 số 1065§2 cũng đã nhắc nhở: “Để lãnh nhận bí tích hôn nhân cách hữu hiệu, tha thiết khuyên nhủ đôi bạn nên lãnh nhận bí tích sám hối và bí tích Thánh thể”.
Cha xứ của anh khước từ không cho anh cử hành bí tích hôn phối trong Thánh lễ có thể vì đường lối mục vụ trong giáo xứ của ngài. Nếu anh và bạn gái của anh không mắc ngăn trở hôn phối nào theo Giáo luật, anh có thể trao đổi với cha xứ và xin ngài giới thiệu anh đến một giáo xứ khác để được của hành lễ cưới. Giáo luật 1983 số 1115 đã qui định: “Hôn phối phải được cử hành tại giáo xứ mà một trong hai người kết hôn có cư sở, bán cư sở hay nơi cư trú được một tháng; nếu là những người vô gia cư, thì tại giáo xứ mà đương sự đang ở. Hôn phối có thể cử hành ở nơi khác, khi có phép của Bản Quyền riêng hay Cha Sở riêng”.
Chúc anh thành công, và tìm được niềm vui.
Địa điểm bán Bàn Thờ Chúa cho Gia đình – Điêu khắc Tượng Công Giáo – Bàn Thờ Công Giáo tại TPHCM.
Câu hỏi 3: Trọng kính Cha, con xin có một vấn đề: Một người chỉ mới 17 tuổi đã kết hôn 2 năm, độ tuổi còn rất trẻ và yếu đuối. Sau năm 1975 người chồng đi cải tạo tập trung, người vợ đã ngoại tình và có con. Sau khi người chồng trở về đã xin phép ly hôn và đã được phép hủy kết hôn theo Toà Giám Mục Sài Gòn. Vấn đề của con là: Trong việc hủy kết hôn giữa hai người đã cam kết trước mặt Chúa là trung thành và yêu thương và tha thứ, như vậy người chồng đã không thông cảm và yêu thương, xin ly hôn và không chấp nhận bất cứ lý do gì. Như vậy Toà Giám Mục cho phép ly hôn có hợp lệ không? Ý con muốn nói: chỉ nghe một chiều, không cần biết lý do và sự giải thích của đương sự như vậy có đúng luật Hội Thánh cho phép ly hôn không cần sự đồng ý của đương sự và sự yêu thương không có trong lúc cam kết với nhau, khi gian truân cũng như khi bệnh hoạn?
Ly hôn và ly dị là hai ý niệm khác nhau. Khi cặp vợ chồng có những bất hòa không thể chung sống an toàn với nhau được (nguy hiểm cho đương sự hay con cái về thể lý cũng như luân lý) thì giáo quyền có thể cho phép ly hôn tức là miễn chuẩn việc chung sống với nhau, mặc dù họ vẫn còn là vợ chồng.
Còn ly dị là tháo gỡ dây hôn phối đã thành sự như ta thấy trong đặc ân thánh Phaolô, đặc ân thánh Phêrô, và trong trường hợp hôn nhân chưa hoan hợp. Ngoài ra không bao giờ có vấn đề ly dị trong Giáo Hội Công Giáo.
Còn việc ta hay gọi là “tiêu hôn” tức là sự tuyên bố một cuộc hôn nhân không thành sự vì lý do nào đó. Để có thể tuyên bố “tiêu hôn” Toà án của Giáo Hội phải điều tra cẩn thận để có được những bằng chứng chắc chắn về những lý do làm cho cuộc hôn nhân đó không thành.
Theo những điều nêu lên trong vấn nạn, tôi có thể hiểu đây là trường hợp Toà Giám Mục Saigon đã tiến hành việc tiêu hôn cho đôi hôn phối đó chứ không phải là ly dị hay ly hôn.
Bàn Thờ Công Giáo tại TPHCM – cách đặt Bàn Thờ Công Giáo đúng – Bàn Thờ Chúa Phòng Khách.
Câu hỏi 4: Thưa Cha, Chúng tôi yêu nhau và dự định sẽ tổ chức lễ cưới nhưng sau đó gia đình hai bên phản đối. Bên phía chú rể cho rằng tôi không phải là người con dâu tốt, còn bên phía tôi thì không hài lòng với trình độ học vấn của chú rể. Tôi thực sự rất đau lòng vì chúng tôi yêu nhau và muốn xây dựng một gia đình với nhau. Xin Cha hãy cho tôi biết, trong vòng hai năm tới nếu gia đình vẫn tiếp tục cản trở thì chúng tôi sẽ đi đến một nơi xa và xây dựng sự nghiệp. Khi đó, chúng tôi có được phép làm Bí Tích Hôn Phối không, và trong trường hợp kết hôn nhưng không có sự đồng ý của bố mẹ thì chúng tôi vi phạm điều gì? Xin cám ơn Cha đã giúp tôi không mắc lỗi trong quyết định của mình.
Anh Chị thân mến, chúng tôi rất thông cảm những khó khăn mà Anh Chị đang phải đối diện trong vấn đề hôn nhân. Để trả lời vấn nạn của Anh Chị, chúng tôi xin phân biệt mấy điểm sau đây:
– Mối tương quan hợp lý giữa cha mẹ và con cái: Là bậc cha mẹ các ngài có trách nhiệm với con cái và “phải dạy cho con cái biết giữ mình khỏi những sự liều lĩnh và những sa đọa đang đe dọa các xã hội con người” (GLCG 2224). Chính vì thế cha mẹ phải hướng dẫn con cái trong mọi vấn đề, nhất là những vấn đề quan trọng. Hôn nhân là một vấn đề thật quan trọng có liên quan đến nhiều người. Cha mẹ có nhiều kinh nghiệm trường đời hơn con cái, do đó con cái nên khôn ngoan lắng nghe. Giáo Hội đã khôn ngoan tiên liệu rằng: “Đừng kể trường hợp cần thiết, nếu không có phép của Đấng Bản Quyền sở tại, không ai được chứng hôn cho: […] hôn phối của vị thành niên, nếu cha mẹ không hay biết hoặc đã phản đối cách hợp lý” (GL điều 1071 §1).
– Tuy vậy, mọi người phải tuân theo lời giáo huấn của Giáo Hội trong sách Giáo Lý Công Giáo: “Đến tuổi trưởng thành, con cái có quyền và có bổn phận lựa chọn nghề nghiệp và bậc sống của mình. Chúng sẽ đảm nhiệm các trách nhiệm mới này trong niềm tin tưởng nơi cha mẹ, sẵn sàng đón nhận những ý kiến và những lời khuyên của cha mẹ. Cha mẹ phải ý tứ đừng ép buộc con cái trong việc chọn nghề cũng như trong việc chọn người bạn đời của chúng. Tuy nhiên sự dè dặt phải có như thế sẽ không cấm, mà trái lại còn đặt cho cha mẹ cái bổn phận phải giúp đỡ con cái mình bằng những góp ý khôn ngoan, nhất là khi con cái tính việc lập gia thất” (GLCG 2230).
Luật của Giáo Hội cũng qui định rằng: “Mọi người không bị luật cấm đều có thể kết hôn” (GL điều 1058). Vậy cha mẹ được quyền và có bổn phận góp ý, hướng dẫn, nhưng không được ép buộc con cái trong việc hệ trọng này. Phần con cái, các en có trách nhiệm quyết định và lãnh nhận mọi hậu quả của những quyết định đó.
Do đó nếu Anh Chị đã đến tuổi trưởng thành, Anh Chị có quyền lập gia đình và chịu Bí Tích Hôn Phối theo những qui định của Giáo Luật dù có trái ý cha mẹ cũng không lỗi gì trong quyết định này. Ai cũng biết rằng một đám cưới mà cha mẹ không hài lòng thì cũng gặp nhiều khó khăn và cũng chẳng vui gì. Chính vì thế, Anh Chị nên tìm nhiều cách khác nhau để trình bày cho cha mẹ đôi bên hiểu rõ hơn về Anh Chị, cố gắng thuyết phục cha mẹ để hy vọng sẽ tốt đẹp hài hòa hơn.
Trả lời