Giáo lý vô thường trong đạo Phật không chỉ là một lý thuyết hay luận thuyết mà còn là một sự hiện thực. Để hiểu và chứng ngộ sự thật này, Lời Phật và bạn cần thực hành và suy ngẫm sâu sắc.
>>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về vô thường.

Đức Phật dạy chúng ta hãy quán chiếu thân thể là vô thường, nó rất dễ mất, để chúng ta đừng chấp thủ, đừng luyến ái mà khổ đau.
Các kinh Phật thường sử dụng các hình ảnh như ánh chớp, sương mai, bọt nước… Để miêu tả tính chất phi thường của tồn tại, sự diệt vong tại chỗ của tất cả mọi vật. Kinh Kim cang nói rằng tất cả các hiện tượng đều không thật, giống như một giấc mơ, một ảo giác, một bong bóng nước, một sương mai, một tia lửa bừng lên giữa trời xanh. Kinh Lăng-già cho rằng tất cả các hiện tượng đều không thật, nói chung là không thật, chóng mặt như tia chớp, vì vậy được gọi là không thật. Điều này đúng nhưng không phải ai cũng nhận thức được và chấp nhận, điều đó gây ra nhiều khổ đau và hệ quả xấu. Vì vậy, chúng ta cần thực hành để hiểu, nhận thức được sự thật này.
Đầu tiên, việc thực tập quán chiếu thân thể là một thực tế không thể tránh khỏi. Tất cả chúng ta đã trải qua quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành, rồi sau đó bị già nua và bệnh tật, cuối cùng là chết. Sự vận động của sinh, trụ, dị, diệt này luôn diễn ra liên tục trong từng giây phút. Việc chúng ta lớn lên từng ngày cũng có nghĩa là chúng ta đang chết từng ngày, tức là chúng ta đang thay đổi. Chúng ta không còn giống như hôm qua nữa. Trong Phật giáo, sự thay đổi này được gọi là phi nhất phi dị, tức là không giống nhau và không khác nhau cùng một lúc. Tương tự như khi nhìn xuống dòng sông, chúng ta có thể thấy rằng dòng sông không thay đổi, vẫn là dòng sông đó, đó là sự không khác nhau. Nhưng nếu quan sát kỹ hơn, chúng ta có thể thấy rằng lượng nước trong dòng sông đã thay đổi liên tục trong từng giây phút, dòng sông đã thay đổi liên tục, đó là sự không giống nhau. Thân thể của chúng ta cũng vậy.
Việc quán chiếu thân thể không phải để coi thường và bỏ bê nó khi thấy không bền chắc. Đây là hiểu lầm về giáo lý vô thường. Thân thể này cũng là một tà kiến, và chấp nhận nó đoạn diệt cũng là tà kiến. Đức Phật dạy chúng ta hãy quán chiếu thân thể là vô thường, bởi nó rất dễ mất và đừng chấp thủ, đừng luyến ái để tránh khổ đau. Thay vào đó, chúng ta nên sử dụng tấm thân này để tìm cầu giải thoát, không tạo nghiệp bất thiện và không gây khổ đau lâu dài. Chúng ta nên sử dụng thân thể này như một chiếc thuyền, gọi là thuyền pháp thân, để bơi qua dòng sông sinh tử bằng những việc làm có ý nghĩa, lợi mình và người khác, và đưa đến an lạc và hạnh phúc.

Quán chiếu về tính vô thường của vạn vật có công năng trừ diệt si mê. Ta không chán ghét mọi vật mà tiếp xử với vạn vật bằng tuệ giác, nghĩa là không tham đắm và vướng mắc.
Quan tâm vô thường cũng tương tự như vậy. Phật giáo, bắt nguồn từ quan niệm về giá trị cuộc sống của tôn giáo, nhận thức năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), các hành đều là khổ. Kinh Tạp A-hàm, số 437 ghi: “Vì tất cả các hành đều là pháp biến dịch, vì vậy Ta nói nếu có sự thọ thì đều là khổ”.
Sở thọ là cảm nhận của chúng ta về cuộc sống. Nó có ba loại: cảm thọ khổ, cảm thọ vui và cảm thọ trung tính (không vui cũng không khổ). Tất cả các loại cảm thọ đều không bền vững, thường thay đổi. Không ai luôn vui hoặc luôn khổ. Cuộc sống của chúng ta là một chuỗi liên tục của niềm vui và nỗi buồn, xen kẽ giữa khổ đau và hạnh phúc. Tất cả đều trôi qua một cách lặng lẽ. Tâm trí chúng ta luôn thay đổi, trong mỗi khoảnh khắc của sự hình thành và sự diệt vong.
Theo lời dạy của Đức Phật, chúng ta hiểu rằng không chỉ các khổ thọ mới là khổ, mà cả lạc thọ cũng vô thường và là khổ. Tuy nhiên, việc hiểu nhầm lời dạy này có thể dẫn đến sai lầm. Sự khổ đau phụ thuộc vào nhận thức của mỗi người và sự thay đổi của sự vật là nguyên nhân của nó. Chúng ta muốn giữ cho mọi thứ không thay đổi nhưng thực tế là sự vật luôn thay đổi. Chính nhận thức và ước muốn sai lạc này làm phát sinh đau khổ. Chúng ta đau khổ không phải do sự thay đổi và băng hoại của mọi thứ mà do chủ quan tham đắm những thứ mình yêu thích mà không thể giữ được.
Tình hình sống của chúng ta cũng thay đổi không ngừng. Tất cả các sự vật, từ đại dương sâu thẳm đến những cành cây xung quanh ta, đều có tính chất vô thường và chuyển động. Một số người có thể nhìn thấy ngọn núi mà họ sinh ra và đã trải qua hàng chục năm, nhưng vẫn không tin rằng nó cũng thay đổi. Tất cả đều trải qua quá trình hình thành, tồn tại, suy giảm và phân hủy trong thời gian dài hoặc ngắn. Tuy nhiên, dù thời gian dài hay ngắn, mọi sự vật đều chuyển động và biến đổi liên tục.

Vô thường cũng có nghĩa là vô tướng (còn gọi là Không) vì thực tại của vạn hữu thoát ra ngoài mọi khái niệm và ngôn từ.
Vì sự vật biến chuyển không ngừng cho nên sự vật không duy trì được tính cách đồng nhất tuyệt đối của nó. Vô thường vì vậy là một tên khác của vô ngã. Đứng về mặt thời gian, sự vật là vô thường, đứng về mặt không gian, sự vật là vô ngã. Vô thường cũng có nghĩa là vô tướng (còn gọi là Không) vì thực tại của vạn hữu thoát ra ngoài mọi khái niệm và ngôn từ. Vô thường cũng là Duyên khởi, vạn vật do nhân duyên nương vào nhau mà sinh khởi và tồn tại. Kinh Tạp A-hàm ghi: ”Sắc là vô thường. Nhân và duyên sinh ra các sắc cũng vô thường. Vậy, các sắc được sinh từ nhân và duyên vô thường, làm sao có thể là thường được?”. Hơn nữa, ”Sắc không phải là ngã. Nếu sắc là ngã, không nên ở nơi sắc mà bệnh, khổ sinh và cũng không thể có ước muốn khiến như vậy hay không như vậy đối với sắc. Vì sắc là vô ngã cho nên ở nơi sắc có bệnh, khổ sinh và nó cũng có ước muốn khiến như vậy, hay không như vậy đối với sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy”.
Hiểu sâu về vô thường là có trí thông minh nhận ra bản chất bên trong của mọi vật, được gọi là vô ngã trí. Nói về vô ngã là nói về không gian của một hiện tượng, nói về vô thường là nói về thời gian của một hiện tượng. Khi hiểu sâu về tính vô thường của mọi vật thì ta không còn bị quá mức đắm mê hay dính vào cảm xúc, bởi vì ta nhận thức được rằng mọi thứ đều thay đổi theo thời gian, không thể bám víu vào thói quen một chiều và đòi hỏi. Khi đạt được đức Thường của Niết-bàn (Thường, Lạc, Ngã, Tịnh), ta có khả năng phân biệt tốt xấu ngon dở mà không bị mắc kẹt trong cảm giác.
Quán suy nghĩ về sự vô thường của cuộc sống để hiểu rằng mọi thứ đều có ngày phải kết thúc, phân rã. Vì vậy, giúp chúng ta trân trọng từng khoảnh khắc của cuộc sống, sống trong sự tỉnh táo và suy nghĩ đúng đắn.
Như đã đề cập, nguyên nhân của đau khổ là sự vật bình thường mà chúng ta cho là thường. Trong kinh Đại Bảo Tích có kể câu chuyện con chó bị đánh bằng cục đá, nó chạy theo cục đá và sủa, vì tưởng rằng cục đá là nguyên nhân gây đau đớn cho nó. Tuy nhiên, con chó không biết rằng người ném cục đá mới là nguyên nhân gây ra đau đớn cho nó. Tương tự, vô thường không gây ra đau khổ, mà chính vì nhận thức sai lầm cho những điều vô thường là bình thường nên ta mới đau khổ.
Quán vô thường là một việc rất quan trọng. Vì thứ nhất, nó cho chúng ta biết rằng mỗi giây phút hiện tại đều là quý giá và tuyệt đẹp, chúng ta cần trân trọng và giữ gìn cho bản thân và những người xung quanh. Thứ hai, khi chúng ta gặp phải tình huống không như ý, chúng ta không nản lòng. Điều vô thường cho chúng ta niềm tin rằng mọi thứ đều có thể thay đổi. Nếu chúng ta biết cách thích nghi, tình huống sẽ thay đổi vào ngày mai. Một học sinh ngoan nếu không được chăm sóc thường xuyên, sẽ mất đi nét dễ thương của mình. Nhưng một học sinh ngang bướng, ta có thể giáo dục để trở thành một người tốt. Đó là bài học quý giá từ việc vô thường.

Quán vô thường là một việc làm vô cùng quan trọng.
Thực tập quán vô thường, có thể giúp ta vài điểm như sau:.
Nhận thấy điều phi thường, chúng ta nhận ra giá trị của thời điểm hiện tại và cần quan tâm, chăm sóc và bảo vệ nó.
Khi gặp tình huống hiện tại không như mong muốn, đừng nản lòng. Mọi thứ đều tạm thời, nếu ta biết cách thích nghi thì ngày mai sẽ thay đổi.
Bằng cách nhận ra tính không thường của mọi vật, ta có thể loại bỏ ái nghi và giữ tâm trí bình tĩnh trước những thay đổi bất ngờ. Nếu có được sự yên tĩnh trong tâm hồn, ta sẽ không tìm kiếm những thú vui tạm bợ và thường tìm kiếm hạnh phúc chân thật.
Quán nói về tính không thường của mọi vật có chức năng không chỉ phá huỷ si mê. Chúng ta không ghét bỏ mọi vật mà đối xử với chúng bằng trí tuệ, có nghĩa là không bị thu hút và ràng buộc.
Tìm hiểu thêm: Từ khóa: đức phật – Tổng quan về Phật học
Theo Kinh Tạp A-hàm, nếu không biết, không rõ, không đoạn tận và không ly dục với sắc (thọ, tưởng, hành, thức), tâm sẽ không giải thoát và không thể tránh khỏi sự sợ hãi về sinh, già, bệnh, chết. Vì vậy, Đức Phật khuyên các Tỳ-kheo phải luôn quán chiếu để thể ngộ năm uẩn là vô thường, tức là quán sát sắc (thọ, tưởng, hành, thức) là vô thường. Việc quán sát như vậy được gọi là quán sát chân chính và hiểu biết như vậy được gọi là biểu biết chân chính. Khi đã quán sát và hiểu biết chân chính, tâm sẽ sinh ra nhàm tởm và dứt sạch tham muốn và ưa thích. Việc dứt sạch hỷ tham được gọi là tâm giải thoát.
Đức Phật đã khẳng định rằng: “Ai yêu thích sắc (thọ, tưởng, hành, thức) sẽ cũng yêu thích khổ”. Nếu ta sống trong khổ đau mà vẫn yêu thích thì không còn mong muốn được giải thoát nữa. Thái độ vui thích trong khổ đau được gọi là vô minh: “Vô minh là không biết, không biết tức là vô minh. Không biết điều gì? Sắc là vô thường, và không biết sự thật rằng sắc là vô thường”. Còn trí hay minh thì chỉ có người trí mới mong muốn giải thoát khỏi khổ đau: “Ai không yêu thích sắc (thọ, tưởng, hành, thức), sẽ không thích khổ. Ai không yêu thích khổ, thì sẽ được giải thoát khỏi khổ”.
Trả lời