Ai là người sáng lập đạo Cao Đài?
Theo Lời Phật tìm hiểu, Đạo Cao Đài được thành lập bởi một số quan chức, doanh nhân, chủ đất, trí thức sáng lập và phát triển chủ yếu ở các tỉnh, thành phố miền Nam.
Vào đầu thế kỷ XX, tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (bao gồm Phật, Lão và Nho) ở Việt Nam đã giảm dần, nhưng nhóm Ngũ chi Minh đạo (bao gồm Minh Sư, Minh Lý, Minh Đường, Minh Tân và Minh Thiện) lại phát triển mạnh, giúp đưa tư tưởng Tam giáo đồng nguyên trở lại. Đồng thời, phong trào Thông linh học của phương Tây cũng phát triển mạnh tại Nam Bộ, với các hình thức “xây bàn” tương tự như tục cầu hồn của người Việt và cầu cơ của nhóm Ngũ chi Minh đạo, tạo thành phong trào cầu cơ, hay còn gọi là “cơ bút”.
Trong các đàn cơ này có hai nhóm chính hình thành đạo Cao Đài. Nhóm đầu tiên do ông Ngô Văn Chiêu cầu cơ tại các đền, chùa, phật đường theo truyền thống cơ bút thuộc nhóm Ngũ chi Minh đạo. Nhóm thứ hai bao gồm các vị: Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Phạm Công Tắc (nhóm Cao – Phạm) tổ chức xây bàn cầu cơ theo kiểu Thông linh học phương Tây. Năm 1926, hai nhóm cơ bút trên đã thống nhất và hình thành đạo Cao Đài, ông Ngô Văn Chiêu được phong làm Giáo tông đầu tiên của đạo Cao Đài.

Vào ngày 29/9/1926, một số quan chức cấp cao của các đàn cơ và tín đồ đã đồng ý ký vào phiếu đăng ký đạo và gửi đến chính quyền Pháp. Ngày 19/11/1926, các quan chức đầu tiên của đạo Cao Đài đã tổ chức lễ khai mạc tại tỉnh Tây Ninh và chính thức giới thiệu đạo Cao Đài.
Sau khi thành công trong việc sáng lập đạo Cao Đài, ông Ngô Văn Chiêu đã từ chối chức vị Giáo tông tại Tây Ninh và quay về Cần Thơ để thành lập phái Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi. Phái này tập trung vào tu luyện theo phương pháp “vô vi”, không có mục đích phổ độ và không thành lập tổ chức giáo hội.
Quá trình tiến hóa đạo Cao Đài ở Việt Nam
Sau khi khai đạo, các lãnh đạo giáo hội Cao Đài đã xây dựng Toà thánh Tây Ninh và hệ thống cơ sở hạ tầng, từng bước hoàn thiện tổ chức hành chính đạo từ Trung ương đến cơ sở. Tuy nhiên, do một số khác biệt trong việc điều hành giáo hội, một số lãnh đạo đã tách ra và thành lập các tổ chức Cao Đài mới như Cao Đài Chơn Lý, Cao Đài Tiên Thiên, Cao Đài Ban Chỉnh đạo,… Trong khi đó, tại Tây Ninh, các lãnh đạo còn lại vẫn tiếp tục điều hành hoạt động của giáo hội Cao Đài.
Tổ chức tôn giáo Cao Đài Tây Ninh có Toà thánh tại địa phương này và là tổ chức có số lượng chức sắc, chức vụ và tín đồ lớn nhất trong các Hội thánh Cao Đài. Sau khi Tòa thánh được dời về địa phương khác, một số tổ chức Cao Đài mới đã được thành lập, đồng thời xây dựng đường hướng hành đạo tiến bộ, sớm có tinh thần yêu nước và vận động đông đảo chức sắc, tín đồ tích cực ủng hộ cách mạng, đồng thời tham gia kháng chiến chống ngoại xâm. Mặc dù bị chia rẽ thành nhiều tổ chức khác nhau, số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự của đạo Cao Đài vẫn phát triển rộng khắp các tỉnh Nam Bộ, đồng thời tạo ra vị thế mới cho đạo Cao Đài trong xã hội đương thời.
Tính chất phân ly, chia rẽ đã trở thành đặc điểm nổi bật của đạo Cao Đài từ năm 1930 đến năm 1975. Trong khoảng thời gian này, đạo Cao Đài đã phân chia thành nhiều tổ chức khác nhau, có khi lên đến 30 tổ chức. Tuy nhiên, trong số các tổ chức này chỉ có khoảng 10 tổ chức hoạt động theo đúng chân truyền của đạo Cao Đài và vẫn tồn tại đến ngày nay.
Từ năm 1995 đến nay, Chính phủ Việt Nam đã chính thức công nhận hoạt động tôn giáo của 10 Hội thánh Cao Đài, 21 tổ chức Cao Đài độc lập và cấp phép hoạt động tôn giáo cho 01 pháp môn Cao Đài.
Tìm hiểu thêm: Các quy tắc trong đạo Cao đài – Ngũ giới cấm
Trả lời