Trong suốt 45 năm tu hành của mình, Thiền được Đức Thế Tôn truyền bá rộng rãi với nhiều hình thức khác nhau. Trong suốt thời gian tu hành này, ngài luôn thực hành Thiền trong mọi hoàn cảnh, bao gồm khi sinh hoạt, ăn uống, ở trại và tất nhiên vẫn luôn ngồi thiền.
> Những câu hỏi thú vị về Đức Phật Thích Ca.
Theo Lời Phật tìm hiểu, Thiền học đã xuất hiện từ rất lâu trước thời Đức Phật, đó là một phương pháp rất đáng để quan tâm đối với người dân Ấn Độ cổ và hiện đại. Thiền học trong Phật giáo được Đức Thế Tôn sáng lập, tuy nhiên, phương pháp này của Ngài dựa trên kinh nghiệm tu tập và chứng ngộ của Ngài để xây dựng một phương pháp giải thoát giác ngộ. Tất nhiên, thiền học Ấn Độ cũng có ảnh hưởng đến phương pháp này.

Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Kinh nghiệm đầu tiên của Đức Phật là khi Ngài còn làm thái tử, rời khỏi cung điện để xuất gia học đạo với hai vi đạo sư nổi tiếng thời bấy giờ là Alarakalama và Uddakaramaputta. Cùng với hai vị này, không lâu sau đó, Đức Phật đã đạt cảnh giới thiền mà hai vị đã đạt trước đó. Chính hai vị này đã xác nhận rằng: “Pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố, chính pháp ấy hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú. Pháp mà hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố. Pháp mà tôi biết, chính pháp ấy hiền giả biết; pháp mà hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi giống như hiền giả và hiền giả giống như tôi. Hãy đến đây, hiền giả! Chúng ta hãy cùng chăm sóc hội chúng này”.
Tuy nhiên, Ngài nhận thấy phương pháp thiền này không đạt đến trạng thái cuối cùng như yếm ly, ly tham, thắng trí, giác ngộ, giải thoát, Niết bàn, vì vậy Ngài đã quyết định từ bỏ.

Hành thiền chứng được hỷ lạc do ly dục sinh là thoát được dục lạc, kinh nghiệm này của Đức Phật đã mở ra một đường hướng để giải quyết vấn đề dục lạc này.
Lần khác, khi chưa đạt được giải thoát, ngài vẫn còn bị cuốn vào ám ảnh của những thú vui trái phép, các tội phạm và sự thèm muốn thỉnh thoảng lại trỗi dậy, gặp phải vấn đề này, ngài lo lắng và suy nghĩ cuối cùng đưa ra quyết định rằng: “Chỉ có việc tu tập thực sự mới giúp ta vượt qua được những dục vọng và tránh khỏi các tội lỗi. Chỉ có khi đã được giải thoát khỏi vòng xoáy sinh tử mới thật sự đạt được hạnh phúc. Và đây là đoạn kinh mô tả điều này:…”.
Tìm hiểu thêm: Tìm hiểu về Thiền Vipassana và cách thiền tại nhà hiệu quả nhất
“Mahanama ơi, trong quá khứ khi con vẫn là một Bồ Tát, chưa đạt đến Bồ đề và Chánh đẳng giác, con thấy rằng các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều và nguy hiểm nhiều hơn. Mặc dù con có thấy với chính kiến rõ ràng, nhưng con vẫn chưa đạt được sự hài lòng từ việc từ bỏ dục vọng, từ bỏ những hành động xấu xa để tạo ra sự sanh ra. Con biết rằng con vẫn bị chi phối bởi các dục vọng. Mahanama ơi, khi con thấy được với chính kiến rằng các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều và nguy hiểm nhiều hơn. Khi con đạt được sự hài lòng từ việc từ bỏ dục vọng, từ bỏ những hành động xấu xa để tạo ra sự sanh ra, con biết rằng con đã không bị chi phối bởi các dục vọng nữa.”

Quyết chí không rời chỗ ngồi trong suốt 49 ngày đêm thiền quán, cuối cùng ngài đã chứng được tam minh: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh, thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu.
Vì vậy, việc thiền đúng cách sẽ giúp chúng ta thoát khỏi cảm giác dục vọng, và kinh nghiệm của Đức Phật đã chỉ ra cách để giải quyết vấn đề này. Quan trọng là để thiền theo phương pháp của Đức Phật, chúng ta cần loại bỏ các chướng ngại như dục vọng và suy nghĩ tiêu cực.
Một kinh nghiệm khác nữa, khi Sa môn Gotama tu hành 6 năm khổ hạnh, ngài vẫn không thấy con đường này đưa ngài đến sự giác ngộ và giải thoát rốt ráo, Ngài quyết định đi đến Uruvela để thực tập thiền định. ”Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực, được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Như vậy, lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là ”xả niệm lạc trú” chứng và trú thiền thứ ba. Như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.

Với mục tiêu giải tỏa tham, sân, si, dẹp trừ lậu hoặc để có sự giải thoát, từ bỏ mọi sự ràng buộc của ham muốn, nên tất nhiên xa lìa dục vọng là điều kiện không thể thiếu trong việc tu thiền, chính vì điểm này mà thiền Phật Giáo mang một màu sắc riêng, không giống các trường phái khác.
Sau 49 ngày đêm tập trung thiền quán, ngài đã đạt được tam minh gồm Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh. Nhờ đó, ngài đã vượt qua được dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu, hiểu rõ rằng: “Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại kiếp sống này nữa”. Với thành tựu này, ngài đã trở thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Điều này chứng tỏ rằng, hành thiền là phương pháp duy nhất để đạt được giác ngộ.
Trên đây là một số kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, chỉ một phần nhưng đã thể hiện được tầm quan trọng và vị trí của Thiền trong con đường tu tập tâm linh theo Phật giáo. Cụ thể hơn, Thiền không chỉ là một phương pháp trong nhiều phương pháp tu tập của Đạo Phật, mà còn là cốt lõi của Đạo Phật. Nhờ việc hành Thiền, Thế Tôn đã chứng ngộ và khai sáng ra Đạo Phật. Trong 45 năm hành đạo của ngài, Thiền được giảng dạy với nhiều hình thức khác nhau và ngài luôn hành Thiền trong mọi hoàn cảnh, từ khi sinh hoạt, khất thực, thọ trai cho đến khi toạ Thiền.

Muốn được sự giải thoát giác ngộ, muốn được sự thanh thản tâm hồn, muốn chế ngự và đoạn trừ dục lạc thì không có gì tốt hơn khác ngoài phương pháp hành thiền.
Về quan điểm khi tu thiền, để giải tỏa tham, sân, si và loại bỏ mọi ham muốn, việc xa lìa dục vọng là điều cần thiết. Điểm này làm cho Thiền Phật Giáo trở nên đặc biệt và khác biệt so với các trường phái khác. Đức Thế Tôn đã nhấn mạnh rằng: “Aggivessana, những tôn giả Sa môn hoặc Bà la môn nào không loại bỏ các dục vọng của thân xác và tâm hồn, chưa thực sự giải thoát, họ sẽ không thể đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhưng nếu họ có thể loại bỏ các dục vọng và làm cho tâm hồn nhẹ nhàng, họ sẽ đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
Với những kinh nghiệm đó, Đức Thế Tôn đã xác nhận rằng: Để đạt được sự giải thoát giác ngộ, để được bình an trong tâm hồn, để kiểm soát và đánh bại ham muốn, không có gì tốt hơn việc thực hành thiền.
Trả lời