Lịch sử hình thành Minh sư đạo
Theo Lời Phật tìm hiểu, Minh Sư đạo, còn được gọi là Giáo hội Phật đường Nam tông, là một tôn giáo tôn thờ Tam giáo Nho – Thích – Lão. Tôn chỉ của Minh Sư đạo là hợp nhất tinh hoa của ba nền tôn giáo lớn (gọi là quy nguyên Tam giáo) nhằm tìm lại cội gốc là Đạo, để từ đó giúp chúng sanh hướng thiện, tu chơn giải thoát. Minh Sư đạo đem lại lợi ích cho tất cả các tầng lớp trong xã hội.
Xuất phát từ Phật giáo thiền tông của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, sau đời Lục Tổ Huệ Năng, Phật giáo thiền tông đã bị đình đốn và chỉ đến cuối thế kỷ VIII mới được hai vị là Mã Công Đạo Nhất thiền sư và Bạch Ngọc cư sĩ kích thích phát triển lại với tên gọi “Phật đường”. Thời kỳ này đã có hơn 800 Phật đường được xây dựng ở vùng Giang Tây, Trung Quốc.
Trong thời vua Lý Công Uẩn ở Việt Nam, Tam giáo đã phát triển và có ảnh hưởng rất lớn. Ngài đã tập hợp những điểm mạnh của ba tôn giáo Nho – Thích – Lão để xây dựng xã hội với định hướng chính là Xã hội Nho – Tâm linh Phật – Thiên nhiên Đạo. Khi phái Phật đường được truyền vào Việt Nam khoảng đời vua Tự Đức (năm 1863) và hòa cùng Tam giáo, Minh Sư Đạo đã lan rộng ở nhiều nơi trên cả nước và trở thành gốc của Ngũ chi minh đạo (bao gồm Minh Sư, Minh Lý, Minh Đường, Minh Thiện, Minh Tân), cũng như dẫn đến ra đời của đạo Cao Đài.
Theo Giáo lý Minh Sư đạo, thời gian được phân chia thành ba giai đoạn: Thượng nguyên (giai đoạn đầu), Trung nguyên (giai đoạn giữa), Hạ nguyên (giai đoạn cuối). Thế giới được phân thành ba thế giới: Hạ giới, Trung giới và Thượng giới. Hạ giới là thế giới của âm, Trung giới là thế giới của con người, Thượng giới là thế giới của thiên đàng. Ngọc Hoàng Thượng đế trị vì ở thiên đàng và quản lý hai thế giới còn lại. Các vị Phật, Bồ Tát ở thế giới Tây phương, các vị Tiên ở thế giới Bồng Lai.
Thuở khai thiên lập địa, Đức Vô Cực Diêu Trì Kim Mẫu (bà mẹ cõi Tây phương) bắt đầu tạo lập trời đất, sự sống vạn vật. Đức Mẫu vốn là Vô Cực Linh căn chơn tánh đã đưa xuống trần 96 ức Linh căn chơn tánh và giao cho mỗi Linh căn một túi gọi là Vạn Bửu Nan (túi vạn thiện) đựng tám món báu là Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ và dặn chúng chơn linh phải thường đeo túi này bên mình và giữ cho trọn tám món báu trở về thời Mẫu cho đặng ngồi toà sen, nếu trái mệnh mất đi một món thời khó trở về. Cả túi và tám báu đều mất thì phải vĩnh đọa địa ngục. Nhưng chúng Linh căn xuống trần lại mải mê trong biển nghiệp, quên lời dặn, đánh mất dần tám báu và cả túi Vạn bửu. Vì vậy, Lão Mẫu bèn khởi lập ”Tiên thiên Long hoa hội”, Đức Lão Quân lãnh mạng độ về hai ức Linh căn. Lão Mẫu lại lập ”Trung thiên Long hoa hội”, Đức Nhiên Đăng Phật cũng độ về hai ức. Còn lại 92 ức chẳng chịu trở về, Lão Mẫu tiếp mở ”Hậu thiên Long hoa hội” tập hợp Tam giáo Phật Thánh, cửu diệu chư linh, cộng nghị phổ độ thu viên. Đức Đi Lặc Phật lãnh mạng cùng chư Phật Tiên Thánh Thần và bốn ức Linh căn đã đắc đạo đều xuống trần tế độ để tất cả Linh căn đều được trở về.
Minh Sư đạo đã chọn triều đại của Vua Huỳnh Đế (2697 – 2597 TTL) – thời Đức Nhiên Đăng tá thế đời làm niên biểu. Vì vậy, trong sự viết văn của Minh Sư hiện tại (năm 2017) đã là năm đạo thứ 4715. Vị Tổ đầu tiên của đạo Minh Sư là đức Bồ Đề Đạt Ma (vị Tổ thiền tông Ấn Độ thứ 28, truyền giáo qua Trung Quốc năm 520) và ảnh hưởng sâu sắc nhất là từ Lục tổ Huệ Năng – vị Tổ đã sáng lập phái Nam Tông….
Vào năm 1863, Đông Sơ Tổ Sư (vị thừa kế thứ 16) đã đến Việt Nam giảng dạy pháp môn. Ban đầu, Ngài có ý định ghé thăm Chợ Lớn, nhưng do tình hình ba tỉnh miền Đông đang bị thực dân Pháp xâm lược, Ngài đã đến Hà Tiên để thành lập chùa Quảng Tế.
Từ khi thành lập Quảng Tế Phật đường ở Hà Tiên, Minh Sư đạo đã phát triển rất nhiều. Năm 1900, Lão Sư Ngô Cẩm Tuyền đã xây dựng chùa Ngọc Hoàng tại số 73 Mai Thị Lựu, phường Đa Kao, quận 1, Sài Gòn. Nhưng năm 1920, chùa Ngọc Hoàng đã được chuyển giao cho người khác để quản lý, vì vậy Lão sư Ngô Cẩm Tuyền đã lập một Phật đường khác tại số 17 Trần Quang Khải, quận 1, Sài Gòn và đặt tên là Quang Nam Phật đường. Từ đó, Minh Sư đạo đã phát triển mạnh và thành lập được hơn 50 Phật đường trải dài từ Bắc đến Nam, bao gồm 3 tông phái.
Tông Đức Tế: bao gồm Tổ đình Quang Nam Phật đường tại số 17 Trần Quang Khải, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh cùng với các chùa Nam Nhã Phật đường tại Cần Thơ, Vạn Bửu Phật đường tại Tiền Giang, Hoà Nam Phật đường tại Đà Nẵng và Diệu Nam Phật đường tại Hà Nội ….
– Tông Phổ Tế: có Tổ đình Linh Quang Phật đường ở Hóc Môn, Phổ Hoà Phật đường ở Mỹ Tho….
Tông Hoằng Tế: có Tổ đình Long Hoa Phật đường tại Cai Lậy, Tiền Giang và chùa Quan Âm Phật đường cùng Trọng Văn Phật đường ở Long An….
Ba phái của Minh Sư đạo có giáo lý, giáo luật và hành đạo tương đồng, đồng thời cũng có truyền thống đoàn kết, gắn bó và sự đùm bọc cho dân tộc, cùng nhau tham gia các hoạt động từ thiện.
Vào năm 1920, Minh Sư đạo đã sáng lập tổ chức Giáo hội với tên gọi “Giáo hội Cư sĩ Phật đường Nam tông”. Tổ chức này có giáo lý, giáo luật và hệ thống tổ chức gồm Ban Trị sự Trung ương, các tỉnh, thành phố có Tỉnh hội và các Phật đường với hàng vạn tu sỹ và tín đồ. Giáo lý của Minh Sư đạo được giảng dạy bằng văn thơ hợp lẽ Đời và lời Đạo, điều này giúp cho giáo lý nhanh chóng phát triển và lan rộng trên khắp đất nước, đặc biệt là ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Chùa Minh Sư được đặt tên theo hai chữ Phật đường và được thờ phượng các vị đức Phật như Diêu Trì Kim Mẫu, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thái Thượng Lão Quân, Khổng Tử, Thích Ca Mâu Ni và các vị chư Phật khác. Phía trước đền thờ có vòng Vô Cực và ngọn đèn Nhiên Đăng ở giữa vòng tròn, phía dưới là bình tịnh thuỷ. Kinh sách dùng để tụng niệm bao gồm Ngọc Hoàng kinh, Địa Mẫu chân kinh, Bắc Đẩu chân kinh, Thanh tịnh kinh, Nhật tụng kinh…. Pháp tu tại chùa Minh Sư rất nghiêm ngặt, các tín đồ khi nhập môn đạo đều phải ăn trường trai, tuyệt dục và tuân thủ giới luật.
Cấp tu trong Minh Sư đạo có ba bậc: Thượng Thừa, Trung Thừa và Hạ Thừa.
Tôn chỉ, mục đích của Minh Sư đạo là tu tập, giải thoát và hòa nhập tinh hoa của ba nền tôn giáo lớn ở Phương Đông gồm Nho, Thích và Đạo để tìm lại nguồn gốc là Đạo (được gọi là Tam giáo). Minh Sư đạo mặc áo dài đen, quần trắng và đội khăn đóng hoặc mũ màu đen.
Quá trình phát triển Minh Sư đạo
Trong những cuộc chiến đấu chống lại độc tài ngoại xâm, nhiều giáo sư của Minh Sư đạo đã tích cực khuyến khích tu sĩ, tín đồ ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc khỏi sự đàn áp và xâm lăng. Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, khi các phong trào Cần Vương, Đông du…Của các nhà yêu nước diễn ra sôi nổi thì chùa Nam Nhã Phật đường ở Bình Thuỷ, Cần Thơ trở thành điểm họp bàn quan trọng về quốc sự. Đại Lão sư Nguyễn Giác Nguyên, người trụ trì chùa Nam Nhã Phật đường, đã bị giặc Pháp bắt giữ tại khám lớn Mỹ Tho vào năm 1913 và 1915. Đặc vụ của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hậu Giang đã chọn chùa Nam Nhã làm địa điểm để liên lạc với các cơ sở trong vùng. Các vị như Ngô Gia Tự, Ung Văn Khiêm, Trương Văn Mộc… Đã từng đến chùa Nam Nhã để khuyến khích cuộc khởi nghĩa năm 1945.
Ngày 16/1/1987, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã tặng bằng khen có công với đất nước cho Lão Sư Nguyễn Giác Nguyên đã nêu cao tinh thần yêu nước, tích cực giúp đỡ và bảo vệ Cách mạng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám và ngày 25 tháng 1 năm 1991, Bộ Văn hoá – Thông tin đã ra quyết định công nhận chùa Nam Nhã là di tích lịch sử cách mạng. Sở Văn hoá Thông tin và Bảo tàng tỉnh Cần Thơ đã dựng bia di tích trước sân chùa; Chùa Đông Nam Phật đường ở Gò Công, Tiền Giang thường dịch và ấn tống kinh sách và thường qua lại quan hệ với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy (thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh), Lão Sư Lê Nghiêm Kỉnh trụ trì Đông Nam Phật đường có mời cụ về chùa ở ba tháng; Chùa Vạn Bửu Phật đường ở Gò Công, Tiền Giang trở thành trụ sở của tổ chức Thanh Niên Cách mạng tỉnh Gò Công (Tiền Giang), Lão sư Đinh Đạo Ninh trụ trì chùa bị giặc Pháp bắt đày đi Côn Đảo. Các tín đồ của chùa Vạn Bửu Phật đường như Đặng Vương Tá, Nguyền Văn Côn đều trở thành đảng viên Đảng Cộng Sản. Sau này, Nguyễn Văn Côn người cộng sản đầu tiên của tỉnh Gò Công đã trở thành Bí thư tỉnh ủy; Chùa Quang Nam Phật đường trước năm 1975 là cơ sở cách mạng tại nội thành Sài Gòn và nhiều những Phật đường khác có những đóng góp tích cực trong hai cuộc kháng chiến cứu nước.
Trong thời gian hai cuộc chiến tranh diễn ra, hệ thống tổ chức Giáo hội của Minh Sư đạo đã không còn giữ được tính ổn định như trước đây. Tuy nhiên, các Phật đường cơ sở vẫn hoạt động bình thường và ổn định tại địa phương, đồng thời vẫn liên kết chặt chẽ với toàn bộ đạo và chủ động tham gia vào các hoạt động xã hội, đặc biệt là các hoạt động từ thiện.
Để tái tổ chức hoạt động của Giáo hội, cần cải thiện hệ thống và quy trình. Vào năm 2007, ba phái Đức Tế, Phổ Tế và Hoằng Tế đã hợp nhất để tạo thành Giáo hội Phật đường Nam tông Minh Sư đạo và được chính quyền công nhận là tổ chức tôn giáo theo Quyết định số 196/QĐ-TGCP ngày 01/10/2008.
Hiện nay, Minh Sư đạo có 53 chùa Phật hoạt động tại 19 tỉnh thành (bao gồm Hà Nội, Ninh Bình, Đà Nẵng, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Bà Rịa Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Lâm Đồng, Kiên Giang, Bạc Liêu) với hơn 500 vị chức sắc từ bậc trung thừa và hơn một vạn tu sỹ, tín đồ. Cụ thể, tổ đình tại Quang Nam Phật đường có địa chỉ số 17 Trần Quang Khải, quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Văn phòng trị sự Trung ương tại Trọng Văn Phật đường, số C15/7, ấp 3, xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh.
Trả lời