I. Ngày chính thức Khai Đạo
Theo Lời Phật tìm hiểu, Đạo Minh Lý được khai sinh vào ngày 27 tháng 11 năm Giáp Tý, tương đương với ngày 23-12-1924. Theo lịch âm, Đạo Minh Lý không chỉ sinh vào năm Tý mà còn cả tháng, ngày và giờ cũng đều thuộc về Tý.
– Năm Giáp Tý (1924).
– Tháng Bính Tý là tháng 11.
– Ngày Bính Tý là ngày tiết Đông chí.
– Giờ Mậu Tý là 11 giờ khuya, đầu ngày Bính Tý.
Trụ sở của Đạo Minh Lý đặt tại chùa Tam Tông Miếu, địa chỉ 82 đường Cao Thắng, thành phố Hồ Chí Minh (trước đây được gọi là Sài Gòn).
II. Mục đích và tôn chỉ của Minh Lý đạo
Đây là đôi liễn để trước mặt tiền chùa Tam Tông Miếu nêu lên tôn chỉ của Đạo Minh Lý:.
Thống Tam giáo dĩ tôn sùng, tân tự trúc thành hưng Chánh pháp,.
Hiệp vạn nhơn nhi giảng luận, cựu kinh đàm bãi dục linh căn.
Nghĩa là:.
Gồm ba giáo để kỉnh thờ, chùa mới cất xong, toan chấn hưng chánh pháp (nhãn tàng),.
Hiệp muôn người cùng giảng luận, kinh xưa giảng dứt, dốc hàm dưỡng linh căn (huyền quan).
Lại có bài thơ nêu mục đích của Đạo Minh Lý như sau:.
Đạo là căn bổn khá tầm mò,.
MINH mẫn lương tâm cần xét dò.
LÝ ấy tánh chơn vô nhi thị,.
Giải phân họa phước chẳng so đo.
Bốn chữ đầu câu là: Đạo Minh Lý giải.
Đạo Minh Lý tôn sùng Thượng Đế và ba đạo lý cổ của Thích, Đạo, Nho, bao gồm cả Tây Phương Phật Tổ, Văn Tuyên Khổng Thánh và Thái Thượng Lão Quân, cùng với Đức Khổng Phu Tử và Đức Lão Tử làm cơ sở để nghiên cứu.
Tại Tam Tông Miếu Sài Gòn, việc thờ phượng rất trang trọng và chỉ thờ thần bài viết bằng chữ Nho, không thờ bất kỳ hình tượng nào.
III. Phương pháp dùng Khai Đạo
Vì Đạo Minh Lý ra đời trong thời Pháp thuộc, nên không chỉ sử dụng Huyền cơ mà còn có nhiều người sử dụng Thần cơ, dẫn đến sự ồn ào và làm phiền chính phủ, cần phải giữ sự yên tĩnh và thanh tịnh. Thật ra, Đạo Minh Lý đã sử dụng cả hai phương pháp Huyền cơ và Thần cơ trong khai quang.
Trước khi cờ hiệu Đạo Minh Lý được treo lên, tượng trưng cho việc khai mở đạo thực sự, thì trong năm 1922 và 1923, đã có một vài người tín đồ, nhờ sự hỗ trợ của Thần Tiên bằng phương pháp Huyền cơ.
Từ lâu, ở nước ta cũng có nhiều đàn Tiên Thần mà sự tôn kính của người dân vẫn còn mơ hồ. Họ chỉ đến để cầu thuốc, hoặc tìm kiếm lời tiên tri cho tương lai, nhưng ít ai quan tâm đến mặt đạo đức. Nhờ có Huyền cơ mà số người như vậy mới bắt đầu tin tưởng vào thế giới vô hình, và không còn ngờ vực gì về Trời, Phật, Tiên, Thánh nữa.
Huyền cơ là gì? Huyền cơ khác với Thần cơ ra sao?
Tuy cũng là Thần Tiên giáng dạy mà phương pháp dùng chỉ truyền có khác.
Theo Thần cơ (Psychographie), Thần Tiên sử dụng tay người bình thường để viết ra những điển lực. Có lúc sử dụng bút, có khi sử dụng cơ. Điều này đã được các Đạo hữu ở đây biết, vì vậy không cần phải nói quá dài.
Theo Huyền cơ (Pneumatographie), Thần Tiên đã viết ra mà không cần sự can thiệp của tay người hay bất kỳ công cụ nào như bút chì. Các vị thiêng liêng viết ra như thế nào trên giấy trắng mà vẫn có chữ rõ ràng và ý nghĩa, ta không biết.
Tôi có thể nói: Đây là một điều kỳ diệu đáng ngạc nhiên, chúng tôi liên lạc trực tiếp với Thượng đế bằng văn từ.
IV. Giải nghĩa hiệu ĐẠO MINH LÝ và hiệu chùa TAM TÔNG MIẾU
1. Nghĩa chữ Minh Lý Đạo
A) Nghĩa phổ thông:.
Từ “MINH” có nghĩa là làm rõ ràng. Nhưng làm rõ ràng cái gì? Đó là câu “LÝ” được nói trong tâm trí của mỗi người vào mỗi buổi sáng. Việc làm rõ ràng cho chính mình không chỉ giúp cho bản thân mà còn giúp cho mọi người.
Nếu ai muốn làm rõ như tôi thì họ cũng được gọi là Minh. Từ Minh có ý nghĩa phân biệt giữa tốt và xấu, đúng và sai, để loại bỏ điều xấu và giữ lại điều tốt, loại bỏ điều sai và giữ lại điều đúng.
Từ LÝ có nghĩa là đúng đắn, tức là hai từ Minh Đức (danh từ kép) biểu thị sự thông minh và khôn ngoan theo sách Đại Học, còn được gọi là Lý tánh, lương tâm, lương tri lương năng, theo các tài liệu khác của Nho giáo.
Đó là một nguyên tắc mà ai cũng phải tuân thủ, phải bảo vệ và cố gắng thực hiện nguyên tắc đó để nó rực rỡ trong tâm hồn và thể hiện ra bên ngoài bằng hành động, để định hình cuộc sống của họ và đóng góp cho cộng đồng và quốc gia. Đó là một giá trị vĩnh cửu, không thể thiếu vắng trong con người.
Vì vậy, mọi người đều phải làm rõ cái khái niệm Lý đó, như một cách thắp sáng đèn thần linh thiêng liêng đến mức rực rỡ. Nhưng khái niệm Lý này vẫn tồn tại trong vật chất, là khái niệm tương đối, tuy thuộc về thế giới tâm linh nhưng vẫn bị giới hạn trong thế giới vật chất, do đó rất khó để hoàn toàn hoàn hảo.
Chữ ĐẠO là con đường cần phải đi trên. Nếu ai đi trên con đường rộng lớn của xã hội thì sẽ có cuộc sống bình yên. Ngược lại, nếu bỏ lỡ con đường này thì có thể sẽ sa lạc vào những nguy hiểm và khổ đau. Một khi đã lạc vào rừng sâu thì không biết đường về, và phải đối mặt với những con rắn độc, cọp dữ đang đợi mình.
Thuật ngữ “Đạo” cũng có ý nghĩa là sử dụng các giác quan để phân biệt, tuy nhiên, giác quan chỉ có thể nhìn thấy bề ngoài. Điều này là nội dung chính được phổ biến.
Tiếp tục phân tích chi tiết để tìm ra lý do cho cấu trúc của danh từ trừu tượng này. Nói về cơ thể, phương pháp khoa học được gọi là phẫu thuật, trong văn chương thì được gọi là thủ thuật miêu tả.
B) Nghĩa chiết tự:.
– Giải chữ MINH: 明 Minh là sáng, tại sao nó sáng?
Giải thích: Chữ Minh được tạo thành từ kết hợp giữa chữ Nhựt 日 và chữ Nguyệt 月, biểu thị cho sự kết hợp giữa ánh sáng từ mặt trời và ánh sáng từ mặt trăng.
Dịch Hệ Từ Hạ truyện, chương 5 tiết 2 nói: Nhựt vãng tắc nguyệt lai, nguyệt vãng tắc nhựt lai. Nhựt nguyệt thôi nhi minh sanh diên. Nghĩa là:. Mặt nhựt qua thì mặt trăng lại, mặt trăng qua thì mặt nhựt lại. Mặt nhựt mặt nguyệt xô đẩy nhau mà sanh ra ánh sáng. Ý nói: Nhựt là mặt trời chủ về ban ngày, là khí Dương. Nguyệt là mặt trăng chủ về ban đêm, là khí Âm. Âm Dương giao hoán cùng nhau mà phát lên một sức sáng điều hòa. Tỉ như hai luồng điện gặp nhau, ở giữa có một dây tơ, làm cho sức nóng của dương hòa với sức lạnh của Âm mà nảy ra ánh sáng trên đường dây tơ vậy.
– Giải chữ LÝ: 理 Chữ Lý gồm có nhiều phần:.
Phần thứ nhất, bên tả có chữ Vương 王. Vương là chủ là quản trị, mà cũng có một cách đọc khác là Vượng. Vượng là thịnh vượng khắp nơi. Chữ Vương viết ba ngang một sổ. Ba ngang tượng trưng Tam tài. Tam tài là: Trời, Đất, Người, hay là Tinh thần, Sức khỏe và Vật chất. Một vật, bất cứ là vật nào, cũng phải có ba phần đó. Tuy nhiên, khi tiến hóa lên đến con người, ba phần đó trở nên hoàn toàn hơn, vì vậy người ta gọi con người là “tối linh ư vạn vật”.
Truyền thống ta thường nghe nói: Tâm và Vật, nhưng ít nhắc đến Duy Sinh (năng lượng sinh học), dẫn đến Tâm và Vật đối lập vì thiếu sự hòa hợp của yếu tố trung gian.
Vì vậy, trách nhiệm của con người là học Đạo để tuân thủ đạo lý, đó là tinh thần phù hợp với thiên nhiên, xã hội và tất cả mọi người, được gọi là Tam tài hợp nhất, tức là điều Vương đã đề cập.
Phần thứ hai, bên cạnh là chữ Lý 里. Chữ Lý này được viết bằng chữ Điền 田 ở trên cùng, Điền có nghĩa là ruộng nước, kế đó là chữ Thổ 土 là đất, hai chữ này cùng nhau tạo thành chữ Lý. Lý là làng nước, là nơi sinh sống. Trong đó, chữ Điền là ruộng tốt để trồng trọt (canh tác ruộng phước), chữ Thổ là đất để người ta sống (an trú đất đai) để trong tương lai có thể gặt hái được hạnh phúc trên đời hoặc được hưởng niềm an lạc của Niết Bàn.
Nếu nói về Chữ Lý, đó bao gồm cả Nhơn đạo và Thiên đạo, trong đó Thiên đạo chi phối hành trình của Nhơn đạo, không chỉ tập trung vào một khía cạnh duy nhất.
Giải mã chữ Đạo: Chữ Đạo trước đây được hiểu là con đường, nhưng hiện nay nó được sử dụng với nghĩa là phương pháp. Ví dụ, trong sách Đại Học, chữ Đạo được sử dụng như câu “Sanh tài hữu Đại Đạo”, có nghĩa là tạo ra tiền bạc theo một phương pháp lớn.
Phương pháp đó là phương pháp nào? Đó là kiểu làm có thu nhập cao nhưng tiêu hao ít, sau một thời gian dài sẽ tích lũy thành nhiều, giúp bản thân trở nên giàu có.
Về phương pháp của Đạo cũng tương tự. Cần tự nhận ra tinh thần, kết hợp Âm Dương, không để nó phân tán và bị lãng phí.
Vậy tôi xin chiết tự chữ ĐẠO 道 mà giải sau đây:.
Khi viết chữ Đạo, trước dấu chấm bên trái được gọi là nhứt Dương, sau đó là nhứt Âm bên phải. Theo Châu Dịch, nhứt Âm và nhứt Dương cùng tạo nên Đạo, có nghĩa là một Âm và một Dương cùng gọi là Đạo. Tiếp theo, Châu Dịch viết chữ Nhứt. Chữ này có nghĩa là hiệp nhất, hiệp chung để trở thành một, không để nó bị rời rạc. Nếu Âm Dương bị rời rạc thì không thể so sánh được. Âm Dương là sự cân bằng tĩnh động, để đạt được trạng thái tịnh tâm và tinh luyện bản thân, là cách để thống nhất với Thiên. Do đó, chữ Nhứt là chủ chốt của sự cân bằng tĩnh động của Âm Dương. Điều đó là một khía cạnh khó diễn tả.
Tiếp theo đó, viết chữ Tự 自. Tự có ý nghĩa là tự nhiên và độc lập, tự hữu và luôn tồn tại, không bao giờ thay đổi hay bị thêm bớt, mãi mãi vẫn còn. Chữ Tự đại diện cho bản thân của mình. Nhưng hãy lấy ý nghĩa đó mà không phải là tư tưởng hay bản ngã ích kỷ, chỉ có tính chia rẽ.
Gộp cả phần trên và dưới thành ký tự Thủ 首. Thủ có nghĩa là đầu tiên, tương đương với từ Nguyên trong Kinh Châu Dịch, tức là thứ gì xuất hiện trước hết. Chúng ta phải theo đuổi điều này để trở về chân lý đích thực là Thiên đàng.
Viết chữ 辶 thường được gọi là Quai sước. Sước có nghĩa là phương tiện di chuyển trên nước, là một loại giao thông quan trọng trong thế giới biển, và có vai trò quan trọng trong lịch sử đời sống của con người. Nó là một hệ thống tuần hoàn trong cơ thể và cũng là một cơ quan quan trọng để hấp thụ khí, giúp cơ thể khỏe mạnh.
Theo khái niệm của triết lý, khi sắp xếp lại tất cả các yếu tố, chúng tạo thành hình chữ Đạo. Chữ Đạo này là sự tự hoạt động tự nhiên đầu tiên, và là phương pháp cần thiết để tu hành để đạt được sự giác ngộ như Phật.
C) Nghĩa huyền bí:.
Trên đó có bài chiết tự, cho phép mỗi người có thể lấy lý trí và ý thức để tìm hiểu. Vì lý trí và ý thức chỉ có khả năng phân tích và lắp ráp, không thể đánh giá được Thiên lý hồn nhiên – một khái niệm rộng lớn bao trùm tất cả mọi vật trên khắp mười phương. Tôi muốn giải thích nó như một nghĩa thứ ba của chữ Minh Lý.
Từ “Minh” không chỉ là động từ mà còn là một khái niệm thần bí, không thể miêu tả bằng ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trăng, mà là đặc tính của một sức mạnh siêu nhiên vô cùng kỳ diệu. Tuy nhiên, vì không có từ nào phù hợp để miêu tả, nên chúng ta phải sử dụng “Nhựt” và “Nguyệt” để giải thích. Từ “Minh” còn có nghĩa là “Diệu Minh” hoặc “Minh Diệu” trong triết lý Phật giáo.
Khái niệm Lý là nguyên thể của tất cả các tôn giáo như Đạo giáo, Phật giáo và Nho giáo. Nó không có hình dạng hoặc màu sắc và không thể được phân loại là vuông hay tròn, đen hay trắng, v.V… Vì không có tính chất, nó không thể được đánh giá là tốt hay xấu. Chỉ khi nó được kết hợp với khí thể, nó mới có thể có tính chất và được phân biệt với những thuộc tính khác nhau như dài, vuông, thanh hoặc trược, nặng hoặc nhẹ.
Như Phật giáo có Lục Tức, nghĩa là 6 chữ Tức, là 6 lớp công phu như sau:.
Lý tức Phật,.
Danh tự tức Phật,.
Quán hạnh tức Phật,.
Tương tợ tức Phật,.
Phân chứng tức Phật,.
Cứu cánh tức Phật.
Bước đầu là Lý tức Phật, là Lý tại triền chưa thoát khỏi Khí thể. Đến phần sau, đó là Cứu cánh tức Phật, mới thực sự là Lý hoàn toàn giải thoát, là Lý rất thông suốt, không phải bằng mắt thường mà có thể nhận thức được, do đó được gọi là MINH LÝ.
Chữ ĐẠO ở đây, Đức Lão Tử không biết nó tên gì nên Ngài cưỡng đặt là Đạo. Tuy vậy, Ngài cũng giải nghĩa cho biết: Khi Đạo vô danh thì Đạo là Thiên Địa chi thỉ, khi Đạo hữu danh thì Đạo là vạn vật chi mẫu. Nghĩa là:. Ngài chỉ biết: Đạo sanh ra Trời Đất vạn vật mà thôi, ta hãy tìm mà hiểu lấy.
2. Nghĩa của chữ Tam Tông Miếu 三宗廟
Từ “Tam” có nghĩa là số ba, còn từ “Tông” có nghĩa là Tổ Tông, là nguồn gốc chính. “Miếu” được sử dụng để thờ cúng. Chỗ “hiệp ba tông” được gọi là qui nguyên. Nguyên là bản chất của một thể có một và hiện tượng của nó là trạng thái phát sinh ra bên ngoài, giống như một cái cây có nhiều cành và nhánh, nhưng cành nhánh đó không thể tồn tại độc lập nếu không có gốc rễ của nó.
Vậy Tam Tông là cái tên tổng quát gồm nhiều ý nghĩa, kể ra sau nầy:.
– Tam giáo đồng nguyên.
– Tam tài nhứt thể.
– Tam Ngũ hiệp nhứt hay Tam gia tương kiến.
Bây giờ tôi xin giải sơ mỗi ý nghĩa đó.
A) Tam giáo đồng nguyên:.
Tam giáo là ba tôn giáo lớn ở Đông Nam Á, tức là: Đạo Phật, Đạo Tiên, Đạo Thánh.
Đạo Phật cũng gọi là Thích giáo, Đạo Tiên cũng gọi là Lão giáo, Đạo Thánh cũng gọi là Khổng giáo.
Ở Trung Hoa và Việt Nam, ba tôn giáo này gần gũi nhau và tiếp xúc lâu ngày, vì vậy hiện tại, giáo lý của chúng đã có phần xen kẽ với nhau, ảnh hưởng đến nhau và khó phân biệt giáo nào thuộc về ai. Có người nói rằng ba tôn giáo này đồng nhất như nước ba sông lớn đổ về biển cả, không thể phân biệt được nước nào thuộc sông nào.
Mặc dù các giáo phái có những tên gọi khác nhau nhưng nếu xét từ góc độ nguyên tắc thì Tam giáo chỉ có một nguồn gốc duy nhất và phổ biến. Giáo phái Thích gọi người tôn sùng là Phật hoặc Pháp, Giáo phái Lão gọi là Đạo hoặc Đức, Giáo phái Nho gọi là Thiên hoặc Thượng Đế…
B) Tam Tài nhứt thể:.
Trước đó có cuộc thi giải chữ Minh Lý Đạo theo phương pháp tách từ, còn bên trái là chữ Vương ba ngang một sổ, đại diện cho Tam Tài đồng thời. Tôi sẽ giải thích thêm một chút.
Hào thượng ….. 6.
5 Thiên ……… Thiên.
4 ……….
3 Nhơn ……… Nhơn.
2 Địa ……… Địa.
Hào sơ ….. 1.
Theo Châu Dịch, mỗi quẻ đôi có 6 hào, tượng trưng:.
Bởi vì sự kiêu ngạo và khiêm tốn đều không tốt, vì vậy không nên sử dụng, mà chỉ nên sử dụng bốn giá trị hào giữa: 2, 3, 4, 5.
Theo phương pháp tính hộ quái, trong quẻ dưới có ba hào là 2, 3, 4 thì hào 2 thuộc Địa, còn hào 3 và hào 4 thuộc Nhơn. Trong khi đó, quẻ trên cũng có ba hào là 3, 4, 5 nhưng hào 3 và hào 4 thuộc Nhơn, hào 5 thuộc Thiên.
Gồm cả hai hộ quái thì có bốn hào: một hào Địa, hai hào Nhơn, một hào Thiên.
Tượng hình một người được vẽ trên bầu trời, dưới chân đất và biến thành chữ Nhân 仁, dù tự hình có chút khác biệt nhưng vẫn giữ nguyên bốn nét như trước đó.
Đức Khổng Tử nói: Nhân giả nhân dã 仁者人也.
Nghĩa là:. đức Nhân là tánh hoàn toàn của con người là nhân bản vậy. Cho nên đạo Nho lấy Nhân làm trụ cốt, làm mục đích chánh thuộc về Tiên Thiên bao gồm cả Tam Tài. Xin chớ lầm tưởng theo nghĩa thông thường là nhân từ, thương xót mà thôi.
Hoặc cũng có thể cấu kết bốn nét thành chữ Vương 王 trên Trời dưới đất, ở giữa có chữ thập 十 là Thập tự nhai, tức là con người lý tưởng, vì trong hình chữ nầy, con người vừa có nét dọc làm nội thánh, vừa có nét ngang làm ngoại vương, đề cao giá trị con người lên ngang hàng với Trời Đất, nên cả ba đồng đẳng với nhau.
Theo Nho giáo, sách Lễ Ký cũng có nói: Nhơn giả kỳ Thiên Địa chi đức, Âm Dương chi giao, quỉ thần chi hội, Ngũ hành chi tú khí. Nghĩa là:. Con người có cái đức của Trời Đất, chỗ giao điểm của Âm Dương, nơi tụ hội của Quỉ Thần, cái tinh túy của Ngũ hành.
Do đó, tinh thần cao siêu của con người để đạt được thành tựu là nhờ vào các giá trị như Đức, Giao, Hội, Tú Khí đã nêu trên. Nếu loại bỏ những giá trị này, liệu con người có thể đạt được trạng thái Thánh siêu phàm hay trở thành vị Tiên Phật không?…
C) Tam ngũ hiệp nhứt hay Tam gia tương kiến:.
Cuốn Ngộ Chơn Thiên của Đạo giáo được giải thích trong một bài thi bát cú như sau: (xin tóm tắt bài thi Hán văn…).
Tam ngũ nhứt luôn ba chữ nầy,.
Xưa nay hiểu được ít người thay!
Đông tam, Nam nhị, hiệp thành ngũ,.
Bắc nhứt, Tây tư cộng cũng vây.
Mồ Kỷ một ngôi sanh số ngũ,.
Ba nhà gặp gỡ kết Tiên thai.
Tiên thai là một gồm chơn khí,.
Mười tháng thai thành ngự Thánh đài.
Đây là phương pháp dựa trên số trong Hà Đồ mà luận. Với tính cách Kim thuộc Thủy, hai hành này đồng chung một cung, do đó số 4 và 1 kết hợp lại thành số ngũ. Đây là để nói về Tình thuộc Kim và Tinh thuộc Thủy, khi kết hợp lại thành một số ngũ, tức là Tu thân hoặc Luyện Tinh.
Bởi vì Mộc và Hỏa cùng nằm trong một chu kỳ, vì vậy khi kết hợp, chúng tạo thành số năm và số bốn, có nghĩa là rèn luyện tâm hồn hoặc tăng cường khí lực.
Về trung tâm, Mồ Kỷ vẫn còn đầy đủ một số ngũ nữa. Đây là nói về chơn ý, còn được gọi là Luyện Thần.
Cho nên Tánh Mạng khuê chỉ có câu:.
Thân, Tâm, Ý, thị thùy phân tác Tam gia.
Tinh, Khí, Thần, do ngã hiệp thành nhứt cá.
Ba số ngũ hiệp lại với nhau, được gọi là Tam ngũ hiệp nhất, còn được gọi là Tam gia tương hội. Nếu ba gia tộc hợp lực thành Thái Cực thì sẽ vượt trội và tiến vào cõi Thiên đình.
Tóm lại, Tam ngũ hiệp nhất là cách để quay trở về với Đạo, bắt đầu từ ngũ hành số 5 rồi đến Tam gia số 3, cuối cùng là Thái Cực với số 1. Phép này được gọi là Phản bổn huân nguyên.
V. Các cơ sở của Minh Lý Đạo
Minh Lý đạo là một tôn giáo nhỏ. Hiện tại, chỉ có dưới 1000 tín đồ trên toàn quốc và hoạt động chủ yếu tại các khu vực quanh thành phố Hồ Chí Minh và Long Hải (Bà Rịa Vũng Tàu). Ngoài ra, đang xây dựng một cơ ngơi tại phường Lợi Bình Nhơn (thành phố Tân An, Long An). Trong khoảng thời gian từ năm 1941 đến 1965, Minh Lý đạo đã gặp nhiều khó khăn và môn sanh phải tự tu học, có người bỏ đạo.
Một số tín đồ trung kiên đã quyết tâm ở lại để duy trì các nghi thức tôn giáo và phục hồi Tam Tông Miếu. Với tình hình đó, ông Minh Thiện đã bỏ mọi việc để tập trung dẫn dắt giáo phái. Nhờ công sức đó, chỉ trong vòng 10 năm, Minh Lý giáo đã hoàn thiện về tổ chức, thành lập Hội Thánh và bổ sung bộ kinh ‘Minh Lý chơn giải’ để bổ sung cho cuốn ‘Minh Lý học thuyết’.
Vào ngày 18/10/2008, ông Nguyễn Thế Doanh – Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ đã trao quyết định công nhận Minh Lý đạo – Tam Tông Miếu là một tổ chức tôn giáo đứng ngang với các tôn giáo khác đang hoạt động tại Việt Nam.
Hiện nay, Minh Lý được công nhận tư cách pháp nhân với tên gọi Minh Lý Thánh Hội.
VI. Kết luận
Trong Thế Đạo, Minh Lý coi con người là đích chính. Họ là người đại diện cho Trời Đất, duy trì mối quan hệ, giúp cho Đại Đạo được rõ ràng và lan rộng.
Nếu Trời Đất có mà không có con người thì Trời Đất cũng không cần có để làm gì.
Loài người có khả năng thống trị trên đường Thiên Địa, làm phụ tướng cho vũ trụ. Tuy nhiên, tại sao chúng ta lại đối diện với tình huống đen tối, với sự thù hận và sát nhân? Lí do là gì?
Người đó bị ám ảnh bởi lòng tham dục và mê mải với hoàn cảnh, gây ra nhiều thiệt hại và làm đất rung lên. Điều quan trọng là phải có một người tượng trưng lành mạnh, thông minh và từ tâm để giải quyết vấn đề, tránh làm hại đời sống.
Để đạt được sự thanh bình và tinh khiết trong cuộc sống, cần phải có một con người có tâm hồn cao thượng, tâm linh sâu sắc và khả năng tự giải thoát khỏi những cảm xúc tiêu cực. Học giỏi và có tài năng cao không đủ để đạt được điều này.
Về Thiên đạo, theo Minh Lý, mỗi người đều có một tánh Minh Lý rất thiêng liêng, vô sinh vô diệt, ngang hàng với Trời Đất, còn được gọi là Minh Đức, Minh tính, Minh giác, và nhiều hơn nữa, tạo nên nền tảng cho việc tu thân. Vì vậy, người điều hành có chỉ dẫn rằng:
Minh Lý tánh, minh tâm kiến tánh,.
Đạo Tam Tông, thọ lãnh hóa hoằng.
Tuy nhiên, vấn đề là khó để nhận ra tính cách của Minh Lý. Vì sinh sống và qua đời đều tại đó, nơi đó được gọi là Sanh Tử quan đầu.
Xin lưu ý rằng không nên giải quyết vấn đề chỉ bằng lý trí, nếu làm việc sai lầm thì hậu quả có thể rất nghiêm trọng.
Hôm nay, Tệ tăng giải thích một số điều về quan điểm của Đạo Minh Lý, hy vọng các Đạo hữu có thể giúp đỡ để hỗ trợ công việc hoằng pháp trong thời điểm này, mang lại may mắn cho cả dân tộc và loài người.
Trả lời