Hướng dẫn cách lên lời cầu nguyện cho người đã qua đời


CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT

Hình Tang lễ cố cư sĩ Lê Minh Triết.

Thông tin dưới đây do Lời Phật tìm hiểu nếu có bất cứ sai sót nào xin góp ý qua phần liên hệ.

CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT THIỆN TÂM chú giải.

(Trích Cách Tu Hiền Và Sự Ăn Ở Của Một Người Bổn Đạo của Đức Huỳnh Giáo Chủ ).

CHÁNH VĂN (Đức Huỳnh Giáo Chủ).

Mỗi người đứng trước bàn thờ Phật niệm: ”Nam-mô Bổn-sư THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT” (ba lần) và ”Nam-mô A-DI-ĐÀ PHẬT” (ba lần).

Kính cầu nguyện cho tên … (Tên người chết) được cứu độ bởi Đức Phật từ bi, thoát khỏi cõi mê đồ và về miền Cực Lạc. Trong lúc ở nhà hoặc đưa đám tang, nếu có tổ chức, có thể cùng nhau đọc: “Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Tam Thập Lục Vạn Ức, Nhất Thập Nhất Vạn Cửu Thiên Ngũ Bá Đồng Danh Đồng Hiệu Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Vong Linh A Di Đà Phật”. Nếu người chết là nhà sư, thì câu cuối cùng là: “Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật”.

NÊN LƯU Ý: Tang gia đừng nên khóc lóc làm trở ngại sự siêu-thoát anh-linh của người chết.

CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT

LƯỢC GIẢI.

Trong mục cầu nguyện cho người chết gồm có ba phần:.

1-ĐẶT BÀN CẦU NGUYỆN:.

Theo lời dạy của Đức Thầy: “Hãy cầu nguyện ở bàn giữa nhà hoặc bàn giữa trời, rồi im lặng đi chôn”. Nếu nhà có sân rộng, thì đặt bàn ngoài sân. Nếu không có sân, đặt bàn gần mái nhà trước cũng được. Trên bàn chỉ nên để một lọ hương, ba ly nước lạnh, một bình hoa hoặc ba cành hoa. Không nên để bánh trái hay bất cứ món gì khác trên bàn.

2-CÁCH ĐỌC BÀI NGUYỆN:.

Gần đây, trong Đạo của chúng ta có nhiều người đọc bài nguyện cho người chết và thêm hoặc bớt những điều không đồng ý, điều này là do họ không chấp nhận đầy đủ ý nghĩa của Đức Thầy. Để tránh sự không đồng nhất đó, chúng ta nên nghiên cứu kỹ lại. Những chữ nằm ngoài vòng ngoặc kép (“) thì không nên đọc, ví dụ như “mỗi người đứng trước bàn Phật niệm”. Các chữ Vái hay các chữ trong vòng ngoặc đơn (ba lần) cũng không nên đọc, vì những chữ này chỉ là lời chỉ dẫn và không nên thêm vào tuổi tác hay ngày giờ của người chết. Lý do cho những ý này đã được chủ nhà hoặc người xướng ngôn tuyên bố trong lời nói đầu.

Vào khoảng năm 1965, Ban Phổ thông Giáo lý Trung Ương đã soạn thảo chương trình tu học Giáo lý sơ cấp. Trong môn Nghi thức, có bài ”Cầu nguyện cho người chết”. Ban Phổ thông Giáo lý Trung Ương đã tổ chức phiên họp để bàn thảo về các chữ trong bài nguyện… Sau khi thảo luận, tất cả đều đồng ý loại bỏ những lời chỉ dẫn không cần thiết.

Trước tượng Phật Tổ, Phật Thầy đã thêm hai từ “Nam Mô” vì hai lý do sau đây: thứ nhất, để đọc chữ “Phật Tổ Phật Thầy” trôi chảy hơn và không thiếu khiêm cung. Thứ hai, trong bài nguyện Qui y, Đức Thầy đã viết “Nam Mô Phật Tổ Phật Thầy”, vì vậy sử dụng từ này ở đây là hoàn toàn phù hợp và không nghĩ rằng Đức Thầy đã viết thiếu.

Về câu: “Nay mình thành tâm..” Thì đồng ý thay từ “mình” bằng từ “con”, vì khi cầu nguyện với Phật và Thầy, sử dụng từ “mình” không phù hợp. Nếu cầu nguyện cá nhân, hãy đọc “Nay con thành tâm…” Và nếu cầu nguyện theo nhóm, hãy đọc “Nay chúng con thành tâm…” Vì phải sử dụng từ đại diện đúng cho số lượng người. Đối với từ “tên”, hãy sử dụng từ “Ông” hoặc “Bà” (tên họ luôn), nếu người chết là trẻ nhỏ, hãy sử dụng từ “Cô” hoặc “Em”, hoặc “Cháu” tùy vào tình huống.

Sau khi thảo luận kỹ càng, Ban Phổ thông đã đồng ý công bố một bài Nguyện mẫu, được in trong Tài liệu sơ cấp và được sử dụng trong toàn bộ Đạo từ đó đến nay. Dưới đây là bài Nguyện đó mà chúng tôi xin chép lại:

”Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

Nam mô A Di Đà Phật (3 lần).

Nam mô Phật Tổ Phật Thầy, chúng tôi hiến dâng tâm tình cầu nguyện cho (tên người cần cầu nguyện) được giải thoát khỏi kiếp đời trần tục và được Đức Phật từ bi cứu độ.

(Vừa niệm Phật xá ba xá, góp hết nhang cắm lên bàn rồi lạy bốn lạy).

(Đức Thầy không có cố định số lần cầu nguyện, mà tùy thuộc vào thời gian và chương trình của lễ, Ban tổ chức sẽ linh động quyết định số lần cầu nguyện là 1 hay 3 tùy ý.)

Theo lời dạy của Đức Thầy, bài “Tây phương Cực Lạc thế giới…” nên được sử dụng khi người bệnh vừa tắt thở, không nên đọc khi cầu nguyện. Lúc đó, người hộ niệm hoặc đứng hay ngồi xung quanh vẫn có thể tiếp tục niệm. Và khi đi theo bàn Phật ra tới huyệt, cũng nên niệm.

Chúng tôi biên soạn và đưa ra nhận xét vì mong muốn trong khi cầu nguyện cho người đã khuất, chúng ta không còn khác biệt quá nhiều về tín ngưỡng. Thật sự, hiệu quả của cầu nguyện phụ thuộc vào tâm trí, không phải hình thức viết tắt: “Khi cầu nguyện, hãy thật thành tâm”. (ĐT).

3-CÁCH HỘ NIỆM:.

Hộ niệm có 2 giai đoạn:.

A)- Khi người bệnh chưa qua đời: Theo truyền thống Phật giáo, những người tu tịnh độ ở Pháp thường tổ chức các buổi hộ niệm cho những người sắp qua đời. Hiện nay, trong cộng đồng Phật giáo, chúng ta vẫn giữ thói quen này vì đó là đúng lý.

Những người sắp qua đời có các trạng thái khác nhau: một số người bị rối loạn tâm thần, đau đớn rên rỉ, vặn vẹo trên giường, thở khó khăn; một số lại nằm im lìm, thở dài và nhẹ cho đến khi kết thúc…Do đó, việc có người hộ tống là rất cần thiết.

Lúc đó con cháu và những người cùng tôn giáo đứng hoặc ngồi quanh bệnh nhân, vuốt tay lên ngực và liên tục niệm 6 chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, giúp cho bệnh nhân có thể nghe và niệm theo, hoặc nhớ tưởng từ tiếng hầu giữ được chánh niệm, hướng về Đức Phật Đức Thầy. Dù bệnh nhân có nằm mê hay cứng hàm không thể niệm được, hoặc thần kinh chập chờn sắp rời khỏi thân xác, họ vẫn có thể nghe được tiếng niệm Phật hướng về Đức A Di Đà và Cực Lạc quốc… Vì vậy, cần nhớ rằng tiếng niệm Phật phải trầm đều và rõ ràng. Không nên niệm bổng và lớn hay quá nhanh, vì người bệnh đang mệt, không thể theo kịp.

Khi người bệnh đang gần tới giờ phút cuối: Những người không hộ niệm nên thắp nhang trên các bàn thờ và cầu nguyện tâm tình cho người bệnh (3 lần). Sau đó, mọi người nên tiếp tục hộ niệm, và khi người bệnh qua đời, tất cả cùng niệm câu “Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới…” Lần lượt.

4- CÁCH CẦU NGUYỆN THỐNG NHỨT:.

Theo truyền thống, sau khi hoàn tất việc tẩn liệm, mọi người tham dự đám tang đều được cầu nguyện và lễ bái riêng tư. Tuy nhiên, gần đến giờ di quan, Ban tổ chức sẽ tổ chức cầu nguyện thống nhất, một lần 3 lượt hoặc một lần 1 lượt tùy vào sắp xếp. (Lưu ý: người phát hương nên thận trọng và không ép buộc mỗi người, chỉ trao cho ai xin nhận. Chỉ cầu nguyện thống nhất đối với quan khách, chánh quyền và những người không có Đạo.) Sau khi cầu nguyện thống nhất, nếu có điếu văn, cảm tạ hoặc cảm tưởng, nên đọc trong giờ đông người tham dự. Khi đến phần mộ, chỉ cầu nguyện thống nhất một lần 1 lượt.

CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT

5- HÌNH THỨC ĐƯA LINH CỮU RA HUYỆT:.

Đến giờ di quan, Ban tổ chức sắp xếp cho khiêng bàn Phật đi trước. Sau đó là một số người hộ niệm mặc áo lễ, tiếp theo là các tràng hoa (nếu có). Sau đó là vãng lỵ, bàn vong và linh cữu. Tang gia và thân quyến đi khít linh cữu. Còn những người dư ra đều tiếp tục đi sau đó. Mỗi người đưa đám đều cầm 1 cây hương và đọc bài ”Nam Mô Tây Phương…”(Hộ niệm). Tuyệt đối không được nói chuyện ngoài hoặc khóc kể, như Đức Thầy đã cho biết: thế sẽ ”…Gây trở ngại cho sự siêu thoát anh linh của người chết”.

(Việc niệm lớn tiếng hay niệm thầm phụ thuộc vào từng nơi, từng người, tuy nhiên nếu niệm lớn thì cần phải tuân theo quy tắc ăn rẹp, không nên niệm lỏi chỏi.)

CHÚ THÍCH (từ ngữ bài Cầu nguyện cho người chết).

Phiên âm của Phạn ngữ (Namal) được dịch là qui mạng và cứu ngã (tức là lời cầu khẩn), tức là ta cam kết tuân theo Đức Phật…Và cầu Ngài giúp đỡ mình. Ngoài ra, Nam mô còn có nghĩa là qui y: “Hai chữ Nam mô ấy luôn đúng”. (ĐT).

BỔN SƯ: Ông thầy nguyên thủy (gốc). Thầy trải qua ba giới, bốn loài. Điều này chỉ ra rằng Đức Thích Ca là người sáng lập Đạo Phật đầu tiên.

THÍCH CA: Phiên âm của tiếng Phạn (Sakya) tên của Đức Phật, có nghĩa là người có khả năng từ bi sâu rộng, thương xót và cứu độ tất cả các loài chúng sinh.

MÂU NI (cách phát âm của tiếng Phạn) có nghĩa là Tịnh mặc, tức là tâm trí trong sáng và yên bình. Nó giúp đời sống của chúng ta luôn trong tình trạng an nhiên, trong sạch và không bị ảnh hưởng bởi những tác động bên ngoài.

PHẬT: Phật là đấng hoàn toàn giác ngộ, toàn thiện, toàn mỹ, tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.

Tóm lại, câu “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” được tôn vinh và ca tụng công đức vượt trội của Đức Phật trong cả ba thế giới.

A DI ĐÀ PHẬT (phiên âm từ tiếng Phạn), có nghĩa là ”Phật thọ mạng vô lượng”, tức là Phật được sống lâu và trải qua vô số kiếp đời. ”Vô Lượng Quang Phật” có nghĩa là ánh sáng của Phật rực rỡ vô cùng, chiếu sáng khắp mọi nơi mà không bị bất kỳ vật cản nào.

Di Đà Phật là một vị giáo chủ ở cõi Tây phương Cực Lạc, có sức mạnh giúp đưa chúng sinh từ 10 hướng khác nhau về cõi Phật nếu họ có niệm Phật, làm thiện và có đầy đủ Tín, Nguyện, Hạnh. (Xem thêm Ct câu 187 Q.1, T-1. Q.Thượng).

PHẬT TỔ: Tức Đức Phật Thích Ca (Xem Khuyến Thiện, Q.5, hoặc Chú giải).

Đức Phật Thầy Tây An, hay còn gọi là Đoàn Minh Huyên, sinh tại làng Tòng Sơn, Cái Tàu Thượng, hiện nay là xã Mỹ An Hưng, tỉnh Sa Đéc (Nam Việt Nam). Ngài sinh vào giờ Ngọ, ngày Rằm tháng 10 năm Đinh Mão (1807), trong niên hiệu Gia Long thứ VIII. Đức Phật Thầy khai sáng Tông Phái Bửu Sơn Kỳ Hương và là tiền thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Ngài viên tịch vào giờ Ngọ, ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn (1856). Trong đạo cũng như trong cuộc sống, mọi người đều tôn kính và gọi Ngài là Giác Linh.

THẾ GIỚI CỰC LẠC TÂY PHƯƠNG: Vùng đất Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà nằm về phía Tây, đối với chúng ta ở cõi đời này. Trong Kinh Di Đà, Đức Thích Ca đã nói rằng:

“Mười ngàn cõi Phật về phía Tây có đất Cực Lạc, được Đức Phật A Di Đà trở thành giáo chủ và Ngài đang giảng đường để giúp mọi sinh linh.”

TAM THẬP LỤC VẠN ỨC: Ba mươi sáu vạn ức.

NHỨT THẬP NHỨT VẠN: Mười một vạn.

CỬU THIÊN NGŨ BÁ: Chín ngàn năm trăm.

Tổng cộng là 36 triệu, 119 nghìn và 500. Tuy nhiên, theo từ điển Phật học, chúng ta nên tránh sử dụng văn tự để biểu thị con số này vì nó chỉ là biểu tượng cho sự vô hạn của con số, không thể đếm hết bởi bất kỳ ai ở cõi Cực Lạc. Thay vào đó, chúng ta nên niệm nguyện để đạt được sự giác ngộ của Đức Phật A Di Đà và đưa tất cả chư Phật ở cõi Cực Lạc vào lòng mình.

ĐẠI TỪ ĐẠI BI CÓ ĐỒNG NGHĨA: Vì mọi Phật đều hiểu được “Tứ vô lượng tâm” (Từ, Bi, Hỉ, Xả) và đạt giác ngộ hoàn toàn. Vì vậy, khi nói đến đại từ, đại bi thì tất cả Phật đều đồng cảm, được gọi là đồng nghĩa.

TIẾP DẪN: Rước đưa về cõi Phật. Đức Thầy có câu:”Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho”.

Tóm tắt bài viết “Tây Phương Cực Lạc…” Theo câu chuyện của ông Nguyễn Chi Diệp cho biết rằng Đức Thầy đã viết bài này để thay thế cho bài chú Vãng sanh trong kinh Phật từ lâu để trì niệm cho các tín đồ.

Tóm tắt ý nghĩa là chúng ta cầu nguyện cho Đức Phật A Di Đà và các vị Phật đang ở cõi Cực Lạc hướng dẫn linh hồn của những người đã khuất hoặc tất cả chúng sanh được hồi sinh vào cõi Tây Phương Cực Lạc.

(Theo câu chuyện được ông Nguyễn Chi Diệp kể lại: Vào năm 1939, khi Đức Thầy đang ở Tổ Đình Hòa Hảo, ông và một số tín đồ đã đến thăm. Lúc đó, Đức Thầy hỏi:

-Trong các ông có ai thuộc bài chú Vãng sanh trong kinh Phật từ trước không ?

Một người đàn ông đã đứng lên và nói: Bạch Thầy ạ! Tôi vẫn nhớ. Sau đó, Đức Thầy yêu cầu ông đọc lên. Ông ta liền đọc: “Nam mô A Di Đà…” Sau khi đọc xong, ông ngồi xuống và chỉ sai một vài từ.

Giáo sư Đức đã nói: – Đây là bài chú được phiên âm từ ngôn ngữ Phạn, nếu không hiểu nghĩa thì khi đọc sẽ bị lỗi. Vì vậy, để tôi đọc một bài chú khác Vãng Sanh cho các bạn nghe. Sau đó, Ngài đọc lên: “Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới…”.

Tìm hiểu thêm: Kỷ niệm 83 năm ngày Khai sáng Đạo Phật Giáo Hòa Hảo (ngày 18/5 âm lịch)

Đọc xong Ngài giải thích: – Bài nầy dùng vào 3 việc:.

1-Trong giờ niệm Phật, bạn có thể sử dụng niệm để đi đứng hoặc nằm ngồi. Niệm này mang ý nghĩa tương tự như câu lục tự Di Đà, nhưng còn có ý vị tha (cầu nguyện cho tất cả chúng sanh). Trong khi đó, 6 chữ Di Đà chỉ mang ý vị kỷ (niệm cầu nguyện cho bản thân). Tuy nhiên, cả 2 câu đều có thể được sử dụng để niệm.

2-Là dùng trong lúc hộ niệm cho người chết từ lúc vừa tắt thở đến đưa đám tang ra tới huyệt.

Khi chứng kiến một ai đó hoặc một sinh vật nào đó chết đi, dù không quen biết, chúng ta nên tâm niệm cho họ. Đặc biệt là trong mọi hoạt động sinh hoạt của chúng ta, như cày ruộng, nấu ăn, uống nước… Thì không tránh khỏi va chạm làm tổn thương hoặc gây thiệt hại đến tính mạng của sinh vật (bao gồm cả bốn loài: noãn, thai, thấp, hóa). Mặc dù nghiệp sát sanh là vô tình, nhưng chúng ta vẫn phải chịu nghiệp nợ đó. Vì vậy, chúng ta cần niệm bài chú này hoặc niệm Phật liên tục, để biết ơn và thương xót tất cả: “Tu biết thương vốn thiệt chay trường” (đó là tâm chay); “Chay được tánh chay tâm mới quí” (ĐT).

Chúng ta mong muốn tất cả mọi người đều có thể đạt được giải thoát và tu hành để giải thoát linh hồn. Điều này sẽ giúp chúng ta thay đổi số phận của mình từ nghiệp nợ oán thù sang ân tình và thiết lập tình duyên tốt đẹp với họ. Nếu chúng ta tu hành đúng đắn, chúng ta có thể giúp độ họ, và nếu họ đạt được thành tựu trước, chúng ta cũng có thể được giúp đỡ từ họ.

Sau khi Đức Thầy giải thích xong, tất cả mọi người đã lấy giấy viết và yêu cầu Ngài đọc lại để ghi chép học. Tuy nhiên, cho đến năm 1945, Ngài mới viết vào Quyển Sáu: “Những Điều Tóm Tắt Cần Biết Về Kẻ Tu Hiền”.

CÁCH CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI CHẾT


Posted

in

by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *