Giới thiệu về Phật giáo Việt Nam: Lịch sử và tình hình hiện tại

Theo Lời Phật tìm hiểu, Quãng đường 40 năm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam không lớn so với lịch sử Phật giáo đã có mặt ở Việt Nam từ 2.000 năm trước. Tuy nhiên, trong 40 năm qua, Giáo hội đã đạt được những tiến bộ quan trọng, tạo ra một cột mốc mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Phật pháp tại Việt Nam qua các thời kỳ

Phật giáo xuất hiện ở Việt Nam vào thời điểm nào, vẫn là một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, từ khi gặp gỡ người Việt, Phật giáo đã hòa nhập và liên kết, đi cùng với lịch sử dân tộc.

Thời Hai Bà Trưng (40-43).

Phật giáo đã đóng vai trò quan trọng, đóng góp không nhỏ vào lịch sử bảo vệ đất nước, giành độc lập dân tộc. Lịch sử dân tộc Việt Nam ghi lại, vào năm 40-43 sau Công nguyên, nhà Đông Hán (Trung Quốc) xâm lược và chiếm đóng Giao Chỉ (Việt Nam). Hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống lại sự cai trị của kẻ thù từ phương Bắc. Trong tám nữ tướng dưới sự chỉ huy của Hai Bà, có năm nữ tướng là Ni sư. Hiện nay, tại đền thờ Hai Bà Trưng ở Mê Linh vẫn còn tưởng nhớ tám nữ tướng. Ni sư Phương Dung, một trong năm Ni sư là nữ tướng của Hai Bà, hiện đang được thờ tại chùa Yên Phú, Thanh Trì, Hà Nội.

Thời Tiền Lý (544-602).

Lý Bôn (503-548) đã dẫn đầu cuộc khởi nghĩa đánh bại quân địch Lương từ phương Bắc, thành lập quốc gia Vạn Xuân (544-602). Lý Bôn tự xưng là Hoàng đế, tức là vua Lý Nam Đế và khuyên bảo quốc hiệu Vạn Xuân, cho người dân xây dựng chùa thờ Phật và đặt tên là chùa Khai Quốc (mở quốc gia). Sau nhiều lần tu sửa và thay đổi tên gọi, hiện nay chùa mang tên Trấn Quốc, là một di tích lịch sử đặc biệt ở Hà Nội. Thành lập quốc gia và xây dựng chùa Khai Quốc, chứng tỏ sức ảnh hưởng lớn của Phật giáo đối với cuộc sống của người Việt trong giai đoạn đó [2].

Thời Đinh – Tiền Lê (968-1009).

Đại Cồ Việt được thành lập bởi Đinh Bộ Lĩnh (924-979), trở thành nhà nước độc lập và tự chủ từ năm 968 đến 980. Đinh Tiên Hoàng đã mời Ngô Chân Lưu (933-1011), một nhà sư tiêu biểu, để giúp vua và đất nước. Ngoài ra, vua cũng mời nhiều nhà sư Phật giáo để hỗ trợ trong việc quản lý nội trị và ngoại giao. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của Phật giáo trong xã hội thời kỳ đó. Sau gia đình Đinh, nhà Tiền Lê tiếp quản quyền lực (980-1009). Vua Lê Đại Hành (941-1005) tiếp tục tôn trọng và tin tưởng các nhà sư, giao phó cho họ nhiều trách nhiệm quan trọng. Điều này cho thấy các nhà sư không chỉ có kiến thức về kinh sử mà còn có khả năng văn chương và nghệ thuật, thể hiện sự phong phú của văn hóa Phật giáo thời đó. Các nhà sư đã thông minh sử dụng kiến thức của mình để phục vụ cho sự phát triển chính trị và ngoại giao của đất nước.

Phật giáo xuất hiện ở Việt Nam vào thời điểm nào, vẫn là một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, từ khi gặp gỡ người Việt, Phật giáo đã hòa nhập và liên kết, đi cùng với lịch sử dân tộc.

Phật giáo xuất hiện ở Việt Nam vào thời điểm nào, vẫn là một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, từ khi gặp gỡ người Việt, Phật giáo đã hòa nhập và liên kết, đi cùng với lịch sử dân tộc.

Nhà Lý (1010-1225).

Khởi nghiệp từ Lý Công Uẩn (974-1028). Trong những năm đầu ra Thăng Long, vua không cho xây tông miếu mà cho dân xây mới 8 ngôi chùa trong kinh thành và ven đô, lại sức cho quan nha đôn đốc dân tu sửa các ngôi chùa để thờ Phật ”lấy triết lý Phật giáo mà cố kết nhân tâm, vun bồi trí đức để dân cường nước thịnh”. Dưới triều Lý, Phật giáo phát triển phồn thịnh cùng với sự thịnh vượng của đời sống xã hội. Người hiền, tài được tôn trọng và sử dụng, văn có Văn Miếu – Quốc Tử Giám, võ có Giảng Võ đường để đào tạo và tuyển chọn nhân tài thực học phục vụ quốc gia.

Nhà Trần (1225-1400).

Tiếp theo truyền thống, dòng chảy Phật giáo thời kỳ này phát triển mạnh mẽ hơn các triều đại trước. Ở trong nước, từ vua chính quyền đến người dân đều biết về Phật pháp. Trần Nhân Tông (1258-1308), vị vua thứ ba của triều đại Trần, ngoài đời là người nhân từ và thương người dân, rất nghiêm khắc đối với sai trái của bất kỳ vua chính quyền nào, và trong đạo là người tuân thủ đạo đức. Ngài đi khắp nơi với cành trúc trong tay khuyên dân bỏ đi mê tín dị đoan, theo tư tưởng “hòa quang đồng trần”, theo tinh thần Phật giáo để đoàn kết cùng nhau xây dựng cuộc sống. Ngài còn đi đến Chiêm Thành để thực hiện đoàn kết giữa các bang. Với thành tựu đó, Ngài đã được nhân dân tôn vinh là Phật Hoàng (Vua đời – Vua đạo) [5].

Thời kỳ Lý – Trần là thời điểm ảnh hưởng của Phật giáo lan tỏa trong xã hội, từ vua tới quan đều sống theo tinh thần đạo đức. Nhiều nhà tài ba, trong lĩnh vực văn hóa và kinh sách Phật giáo đã xuất hiện trong thời kỳ này, như nhà nghiên cứu Hoàng Xuân Hãn đã nhận xét: “Thời kỳ Lý – Trần là thời kỳ hòa thuận, nhà có cửa không cần đóng”.

Thời Hậu Lê (1427-1789).

Cả dân tộc Việt và Phật giáo trong thời kỳ này đều trải qua những biến động đặc biệt, sau khi trải qua giai đoạn xâm lược và đô hộ của nhà Minh với chính sách đồng nhất nghiêm khắc. Một mặt, họ đốt sách, diệt trừ tầng lớp trí thức bản địa, phá hủy các công trình văn hóa kiến trúc lớn, nhằm tiêu diệt nền văn hóa Đại Việt phát triển từ những triều đại trước. Mặt khác, họ tôn trọng tư tưởng Nho giáo tuân thủ, gây khó khăn cho Phật giáo, nhằm loại bỏ nền tảng tư tưởng của Đại Việt. Phật giáo thời Hậu Lê gặp nhiều khó khăn nhưng phát triển mạnh mẽ ở các vùng nông thôn. Do binh đội thù nên các Tăng Ni tránh xa thành phố, trở về vùng nông thôn, rừng núi để ẩn cư. Tại đó, họ nỗ lực dạy Phật pháp, người nông dân hay lính đều được Sư dạy chữ để đọc kinh Phật, từ đó mang đến thêm nhiều người biết chữ, tạo thêm sức sống cho nền văn hóa Đại Việt.

Thời Nguyễn (1802-1945).

Từ khi vua Gia Long (1762-1820) lên ngôi (1802), đã có sự thay đổi trong lịch sử. Tuy nhiên, từ thời Nguyễn Hoàng (1525-1613), vị chúa Nguyễn đầu tiên, đã đặt nền móng cho vương triều Nguyễn xây dựng đô thành ở Huế ngày nay. Tại chùa Thiên Mụ (Huế), hiện có bảng đá ghi những điều chúa Nguyễn Hoàng dạy con cháu: “Sống phải tuân theo đạo Nho, tuân thủ trật tự, tuân thủ nguyên tắc xã hội, gia đình, cha con, vợ chồng,… Mộ Thích là tôn trọng triết lý của Phật Thích Ca: đức hiền lành, lòng từ bi, trí sáng suốt, sống hòa thuận, chính trực, nhận lấy kết quả làm việc gì cũng an lành và tốt đẹp [7].

Thời đại Hồ Chí Minh (1945-nay).

Cách mạng tháng Tám (1945) đã đuổi đánh thực dân Pháp, lật đổ chế độ phong kiến ở Việt Nam. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên bố Độc lập khởi đầu nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Các tôn giáo được hưởng thành quả độc lập không lâu sau đó quân Pháp trở lại. Sau khi Pháp thất bại, đến lượt Mỹ âm mưu thiết lập chế độ thống trị trên miền Nam Việt Nam.

Trải qua 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chiến thắng mùa xuân 1975 đã đưa lịch sử nước ta tiến vào giai đoạn mới, thời kỳ hòa bình và thống nhất. Ngày 07/11/1981, tại thủ đô Hà Nội, Đại hội Thống nhất Phật giáo toàn quốc đã thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN). Từ đây, Phật giáo Việt Nam có cơ hội để thể hiện truyền thống Phật giáo yêu nước gắn bó với dân tộc. Đến nay, sau 40 năm, GHPGVN đã phát huy truyền thống tốt đẹp, với nhiều hoạt động có ích cho đời sống, là một tấm gương đi đầu trong việc đoàn kết các tôn giáo, đóng góp vào việc bảo vệ và xây dựng đất nước phát triển. Đúng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Phật giáo Việt Nam luôn đi cùng với lịch sử dân tộc, và luôn có những tấm gương đáng quý, giúp đời và bảo vệ dân tộc.” [8].

Chặng đường 40 năm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam không dài so với lịch sử Phật giáo đã 2.000 năm có mặt ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong suốt 40 năm qua, Giáo hội đã đạt được những tiến bộ quan trọng, tạo ra những cột mốc mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Chặng đường 40 năm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam không dài so với lịch sử Phật giáo đã 2.000 năm có mặt ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong suốt 40 năm qua, Giáo hội đã đạt được những tiến bộ quan trọng, tạo ra những cột mốc mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Đang tồn tại ở mức độ phổ biến và phát triển.

Kể từ khi thành lập, với sự hoạt động tích cực, GHPGVN đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp vào việc xây dựng những giá trị đạo đức và văn hóa tốt đẹp cho xã hội. Trong 40 năm hoạt động, GHPGVN đã thể hiện ba điểm nổi bật.

Đầu tiên, hòa nhập các tổ chức, phái Phật giáo trên toàn quốc vào một tổ chức duy nhất, đồng nhất hướng đi tâm linh. Các phái Phật giáo bao gồm: Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam; Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất; Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam; Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam; Ban liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh; Giáo hội Thiên Thai giáo Quán Tông; Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam; Hội đoàn kết Sư sãi Yêu nước Tây Nam Bộ; Hội Phật học Nam Việt, tham gia trong một tổ chức chung là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Thống nhất về cấu trúc là một cột mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Phật giáo ở Việt Nam. Từ đó, Phật giáo ở Việt Nam hoạt động trong một tổ chức chung, cùng nhau thực hiện một hướng đi tôn giáo mà Tăng, Ni, Phật tử tham gia tổ chức GHPGVN đã chọn là “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”.

Thứ hai, giảm bớt, loại bỏ dần yếu tố cực đoan phản động khỏi tổ chức Phật giáo. Sau ngày 30/4/1975, đất nước đã giành được độc lập, tuy nhiên hậu quả của chiến tranh vẫn còn tồn tại. Đối với Phật giáo trong thời kỳ chiến tranh, các vị chức sắc và tín đồ Phật giáo đa số ủng hộ chính nghĩa và cách mạng. Tuy nhiên, một số người bị cuốn theo phía đối lập do hoàn cảnh. Sau khi hòa bình được thiết lập lại, một số người đã ra nước ngoài và một số người vẫn ở lại trong nước. Việc thành lập tổ chức chung GHPGVN đã giúp loại bỏ yếu tố cực đoan khỏi Phật giáo.

Thứ ba, toàn bộ Phật giáo Việt Nam đã đoàn kết để bảo vệ và xây dựng đất nước theo hướng “Đạo Pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”. Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã thu hút được sự tham gia của nhiều tín đồ, chức sắc và người dân tín tâm với Phật giáo, thể hiện tinh thần cúng dường chư Phật là cứu độ chúng sinh. Phật giáo đã đi đầu trong các phong trào yêu nước, thực hiện giảm nghèo đói và hỗ trợ phát triển. Hoạt động này của Phật giáo là một tấm gương sáng để các tôn giáo khác tham gia vào các phong trào yêu nước, đoàn kết với toàn dân trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.

Năm 1981, GHPGVN ra đời, hiến chương Giáo hội đã khẳng định:

Năm 1981, GHPGVN ra đời, hiến chương Giáo hội đã khẳng định: “Sự đoàn kết của Phật giáo Việt Nam được xây dựng trên nguyên tắc: Đoàn kết ý chí và hành động, đồng thời đồng lòng trong lãnh đạo và tổ chức; đồng thời vẫn tôn trọng và duy trì các truyền thống Hệ phái, cũng như các pháp môn và phương tiện tu hành đúng chính pháp”.

Một số thành tựu nổi bật của Phật giáo Việt Nam 40 năm qua.

Năm 1981, GHPGVN được thành lập, hiến chương của Giáo hội đã khẳng định: “Sự thống nhất của Phật giáo Việt Nam được xây dựng trên nguyên tắc: Thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức; đồng thời vẫn tôn trọng và duy trì các truyền thống Hệ phái, cũng như các pháp môn và phương tiện tu hành đúng chính pháp”. Hiến chương đã được Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn tại Quyết định số 83/BT ngày 29/12/1981. Tại Điều 1 của Quyết định, khẳng định: “Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức đại diện cho Phật giáo Việt Nam về mọi mặt quan hệ ở trong nước và ngoài nước” [9]. Với tổ chức chung GHPGVN đã đạt được một số thành tựu đáng chú ý của Phật giáo Việt Nam trong 40 năm qua.

Về cơ sở thờ tự và số lượng Phật tử, Tăng Ni: Năm 1981, khi thành lập GHPGVN có gần 12.000 ngôi chùa, trên 26.000 Tăng Ni tham gia sinh hoạt trong tổ chức. Đến năm 2021, GHPGVN đã có trên 18.500 ngôi chùa, trên 54.000 Tăng Ni tham gia.

Về tổ chức: Đại hội nhiệm kỳ I (1981-1986), cấp Trung ương, Hội đồng Chứng minh có 50 thành viên, Hội đồng Trị sự có 50 thành viên. Giúp việc cho Hội đồng Trị sự ở Trung ương có 06 ban; cấp địa phương có 27 tỉnh, thành phố có Ban Trị sự Phật giáo cấp tỉnh. Tới Đại hội nhiệm kỳ VIII (2017-2022), Hội đồng Chứng minh có 96 vị, Hội đồng Trị sự có 225 vị chính thức, 45 vị dự khuyết. Với 13 ban, viện giúp việc cho Hội đồng Trị sự. Năm 2014 đã có 63/63 tỉnh thành phố có tổ chức Phật giáo cấp tỉnh, trên 68% cấp huyện, thị trực thuộc tỉnh có tổ chức Phật giáo cấp huyện.

Đào tạo nâng cao trình độ: Trước khi thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phật giáo trên toàn quốc chỉ có một Viện Phật học, chỉ có dưới mười giảng sư đạt trình độ tiến sĩ. Sau 40 năm, Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện có bốn Viện Phật giáo Việt Nam tại: Thủ đô Hà Nội; Thừa Thiên Huế; TP. Hồ Chí Minh và TP. Cần Thơ; một trường cao đẳng Phật học, bảy khóa Cao đẳng Phật học, ba mươi mốt trường Trung cấp Phật học, hàng trăm khóa Sơ cấp Phật học. Mỗi năm, trong nước đào tạo hơn 5.000 Tăng, Ni sinh các cấp, đã có trên 250 giảng sư tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ từ nước ngoài về phục vụ Giáo hội và xã hội. Ngoài ra, cùng với hệ thống đào tạo trong nước, Tăng Ni sinh Việt Nam còn có hơn 1.000 người du học sau đại học ở nước ngoài cho đến nay.

Hoạt động Phật giáo quốc tế: 40 năm qua, GHPGVN đã tổ chức nhiều hoạt động quốc tế trong và ngoài nước. Tăng, Ni, Phật tử Việt Nam ở nước ngoài hợp tác với trong nước để xây dựng nhiều chùa và 22 tổ chức Hội Phật tử Việt Nam ở nước ngoài, thuộc GHPGVN như: Lào, Ba Lan, Séc, Nga, Ukraina, Pháp, Campuchia, Hội Du học sinh Phật giáo Việt Nam tại Ấn Độ,…

Có thể bạn quan tâm: Khái niệm Phật giáo Đại thừa và sự khác biệt so với Phật giáo Nguyên thủy

GHPGVN tham gia nhiều tổ chức quốc tế như: Tổ chức châu Á vì hòa bình (ABCP), thành viên sáng lập Hội nghị Cấp cao Phật giáo thế giới, tham gia Diễn đàn Phật giáo thế giới tại Trung Quốc, là thành viên Vesak của Liên Hợp Quốc. Trong nước vào các năm: 2008, 2014, 2019, GHPGVN và Nhà nước ta đã tổ chức Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc (Đại lễ Vesak) ở Hà Nội, Bái Đính (Ninh Bình), Tam Chúc (Hà Nam) mà Việt Nam trong vai trò là Chủ tịch Đại lễ. Năm 2010, Việt Nam đăng cai Đại hội lần thứ 11 Hội nghị “Những người con gái của Đức Phật” tại TP. Hồ Chí Minh,… Hoạt động quốc tế Phật giáo đã đóng góp vào việc khẳng định, chứng minh chính sách mở cửa và thực tế tự do tôn giáo ở Việt Nam, đoàn kết với Phật giáo và nhân dân thế giới, mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân,….

Thông tin, báo chí Phật giáo: GHPGVN TW có trang web, chương trình truyền hình Phật giáo, bốn tạp chí. Địa phương có báo Giác Ngộ của Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh và nhiều tờ tạp san của các Ban Trị sự Phật giáo địa phương. Ban Truyền thông của GHPGVN mới được thành lập trong nhiệm kỳ gần đây nhưng có rất nhiều hoạt động truyền thông phong phú, thiết thực và hiệu quả. Đặc biệt, trang web GHPGVN trong mấy năm gần đây được đánh giá là trang có thông tin cập nhật phong phú, có sức ảnh hưởng lớn, uy tín trong thông tin xã hội. Truyền thông Phật giáo đã kịp thời chuyển tải nhiều thông tin đến trong và ngoài nước, góp phần tích cực vào thông tin về đất nước con người Việt Nam trong cuộc sống hiện nay.

Hoạt động xã hội: Trong tổ chức GHPGVN, nhiều giáo sĩ, nhà trí thức, nhà học Phật giáo tham gia tích cực các lĩnh vực xã hội cũng như các tổ chức chính trị xã hội. Nhiều người được người dân tin tưởng bầu vào Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… Từ ngày thành lập Giáo hội đến nay, hàng ngàn nhà sư tiêu biểu đã tham gia vào các tổ chức xã hội Thanh niên, Phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc,… Các cấp từ địa phương đến trung ương. Tham gia Quốc hội, đại biểu tiêu biểu của Phật giáo từ khóa I (năm 1946) đến khóa V (năm 1976) có 11 người, từ khóa VI (năm 1981) đến khóa XV (năm 2021) có 42 người [10].

Hoạt động từ thiện: Nếu tính theo thời gian, kỳ thứ I chưa được tổng kết chi tiết; kỳ thứ II (1987-1992), thông qua hoạt động của Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, từ thiện GHPGVN mua công trái được 4,6 triệu đồng và hai lượng vàng; kỳ thứ III (1992-1997), Phật giáo cả nước vận động được hai tỉ đồng; kỳ thứ VII (2017- 2022) tính đến 2020 đã quyên góp trên 512 tỉ đồng. Đặc biệt, trong bối cảnh cả nước thực hiện giãn cách để phòng chống dịch bệnh COVID-19, Phật giáo Việt Nam đã huy động nguồn lực lớn, bao gồm tiền tài, vật chất, tình nguyện viên tham gia chống dịch. Hành động đẹp ấy đã trở thành tấm gương sáng trong đời sống xã hội [11].

Để hỗ trợ GHPGVN thực hiện hiệu quả hoạt động Phật giáo theo ý nguyện của các bậc cao tăng tiền bối, đúng với triết lý

Để hỗ trợ GHPGVN thực hiện hiệu quả hoạt động Phật giáo theo ý nguyện của các bậc cao tăng tiền bối, đúng với triết lý “sống tốt, tu đạo đẹp”, về phía Nhà nước cần quan tâm sâu sắc hơn đến chính sách và pháp luật liên quan đến tôn giáo, nhằm tạo ra một môi trường chung, cụ thể và công bằng cho các tôn giáo.

Sự tôn vinh và những phần thưởng cao quý.

Đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Nhà nước đã trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh lần thứ hai vào năm 2011 nhân kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội (lần đầu tiên vào năm 1992, tại Đại hội kỳ III của Giáo hội Phật giáo Việt Nam). Nhiều Giáo hội Phật giáo Việt Nam ở địa phương cũng được trao tặng các danh hiệu thi đua và phần thưởng quý giá.

Đối với cá nhân, trong 40 năm hoạt động của GHPGVN, nhiều bậc cao Tăng, nhà sư trí thức Phật giáo đã được xã hội vinh danh, được Nhà nước công nhận và trao tặng các danh hiệu cao quý như: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập và nhiều hình thức khen thưởng động viên xứng đáng đối với những cá nhân trong Giáo hội đã có đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Một số giới hạn trong hoạt động của Tôn giáo

Trong suốt bốn thập kỷ vừa qua, GHPGVN đã đạt được nhiều thành tựu được đánh giá cao, tuy nhiên cũng đã tiết lộ một số hạn chế trong hoạt động, xin đề cập đến ba hạn chế cơ bản:.

Thứ nhất, quản lý hoạt động của Giáo hội. Theo truyền thống Phật giáo, Đức Phật không khuyến khích hình thành tổ chức lớn, mà chỉ hình thành Tăng đoàn từ bốn người trở lên để nương tựa nhau, lấy giới luật làm cương yếu. Trong quá trình phát triển, Phật giáo hình thành hệ phái, các sơn môn, chứ không thành tổ chức với quy mô lớn. Hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy Giáo hội, quản lý và điều hành các hoạt động Phật sự dù đã 40 năm nhưng so với một số tổ chức tôn giáo khác vẫn còn rất mới, ít kinh nghiệm. Việc quản lý Giáo hội đang có xu hướng “thế tục hóa”, xuất hiện biểu hiện lỏng lẻo quản lý ở một số nơi làm ảnh hưởng tới hiệu lực quản lý hành chính đạo theo quy định của Giáo hội.

Thứ hai, chưa thể phát huy được quan hệ của tổ chức Giáo hội và phái sơn môn. Theo truyền thống, ngoài giới luật chung của Phật giáo, trong phái sơn môn còn có những quy định riêng để quản lý Tăng, Ni của từng phái sơn môn gọi là thanh quy, môn quy,… Tương tự như câu nói “quốc có quốc pháp, gia có gia quy”, thanh quy hay môn quy trong Phật giáo rất quan trọng để duy trì giới luật tại nơi tu, nơi ở cụ thể của từng cá nhân, theo “nếp nhà”. Từ cụ thể thấp nhất đó để giám sát tu tập, khuyến tấn tu học làm sáng rõ phái sơn môn. Trong Giáo hội hiện nay, thanh quy của một số phái sơn môn có biểu hiện bị xem nhẹ, một số cá nhân không chú trọng vào phái sơn môn mà chú trọng vào tổ chức GHPGVN, dẫn đến tình trạng phái sơn môn không giám sát được cá nhân mà Giáo hội cũng không đủ sức giám sát. Điều đó đã tạo một số sơ hở cho cá nhân lợi dụng để tự do, phóng túng trong sinh hoạt, dẫn đến vi phạm giới luật.

Thứ ba, khả năng quản lý toàn diện hoạt động chưa tương xứng với quy mô của tổ chức GHPGVN. Trong suốt 40 năm hoạt động, Giáo hội đã tiến hành nhiều điều chỉnh trong hệ thống quản lý, thường xuyên hoàn thiện bộ máy hành chính đạo theo một cách truyền thống. Những quy định như hiến chương, nội quy của các cơ quan thuộc Giáo hội luôn được bổ sung, điều chỉnh để đáp ứng hoạt động trong điều kiện mới. Tuy nhiên, việc quản lý và điều hành hoạt động của Giáo hội vẫn còn một số lĩnh vực chưa đạt hiệu quả, cần được cải thiện.

Trong tổ chức GHPGVN, nhiều vị cao Tăng, nhân sĩ, nhà thông thái Phật giáo tham gia tích cực các lĩnh vực xã hội cũng như các tổ chức chính trị xã hội.

Trong tổ chức GHPGVN, nhiều vị cao Tăng, nhân sĩ, nhà thông thái Phật giáo tham gia tích cực các lĩnh vực xã hội cũng như các tổ chức chính trị xã hội.

Kết luận.

Chặng đường 40 năm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam không dài so với lịch sử Phật giáo đã có mặt ở Việt Nam từ 2.000 năm trước. Tuy nhiên, trong 40 năm qua, Giáo hội đã có những bước tiến quan trọng, tạo ra một cột mốc mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Sự ra đời của Giáo hội đã khẳng định tầm quan trọng của Phật giáo Việt Nam trong việc liên kết và đi cùng với dân tộc. Việc chọn hướng đi “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” là một quyết định đúng đắn để phát huy những giá trị tốt đẹp của Phật giáo trong thời đại hiện nay, thực hiện đúng triết lý mà tổ tiên ta đã áp dụng từ hàng nghìn năm trước “xây dựng đạo để xây dựng cuộc sống”. Thành tựu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đóng góp vào việc bảo vệ và xây dựng đất nước trong suốt 40 năm qua không thể phủ nhận. Tuy nhiên, trong những thành tựu đáng tự hào đó, vẫn còn tồn tại những hạn chế, ảnh hưởng đến sức mạnh nội bộ của tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nhìn lại chặng đường 40 năm đã qua, chúng ta tự hào về những thành tựu đã cống hiến cho đạo pháp và dân tộc, đồng thời cũng nhận thức những hạn chế để khắc phục, nhằm không ngừng xây dựng một tổ chức Phật giáo mạnh mẽ, xứng đáng với truyền thống của một tôn giáo “hộ quốc an dân” luôn đi cùng với dân tộc. Để Phật giáo thực sự trở thành một tôn giáo gương mẫu, đoàn kết các tôn giáo và cùng toàn dân đóng góp tích cực vào việc xây dựng một Việt Nam giàu đẹp.

Để hỗ trợ Giáo hội Phật giáo Việt Nam thực hiện hoạt động Phật giáo một cách hiệu quả theo nguyện vọng của các vị cao tăng tiền bối, phù hợp với triết lý “tốt đời đẹp đạo”, Nhà nước cần quan tâm đến chính sách và pháp luật liên quan đến tôn giáo để tạo ra một môi trường chung công bằng và cụ thể cho các tôn giáo. Đồng thời, cần quan tâm đúng mức đối với việc quản lý tôn giáo của Nhà nước, để Giáo hội Phật giáo Việt Nam trở nên mạnh mẽ và phù hợp với nguyện vọng chung của các Tăng, Ni, Phật tử và nhân dân là “tốt đời đẹp đạo”.

Chú thích:.

[1] Thích Trí Quảng (2012), ”Ni giới Việt Nam trong lịch sử dân tộc”, Báo Giác ngộ.

[2] Thích Thanh Nhã (2012), ”Chùa Trấn Quốc”. Nxb. Tôn giáo.

[3] Khánh Bình, ”Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ của Ngô, Đinh và Tiền Lê”, Vườn hoa Phật giáo, truy cập 10/2021, từ www.Vuonhoaphatgiao.Com/lich-su/phat-giao-viet-nam/phat-giao-viet-nam-trong-thoi-ky-ngo-dinh-va-tien-le/.

[4] Hội Văn nghệ Bắc Ninh (2016), ”Lý Vạn Hạnh và Phật giáo thời Lý”, lưu hành nội bộ.

[5] Ban Trị sự Phật giáo Quảng Ninh (2014), ”Hội thảo Trần Nhân Tông”, lưu hành nội bộ.

[6] Phúc Nguyên, ”Phật giáo và tác động của Phật giáo trong thời Trần”, Di sản văn hóa nhà Trần tại Đông Triều, truy cập 10/2021, từ nhatranodongtrieu.Vn/bvct/chi-tiet/16/phat_giao_va_nhung_anh_huong_cua_phat_giao_duoi_thoi_tran.Html.

[7] Thích Trí Tựu trụ trì chùa Thiên Mụ, Văn bia chùa Thiên Mụ Huế.

[8] Phát biểu của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng tại Đại hội Thống nhất Phật giáo (4-7/11/1981).

[9] Quyết định số 83/BT ngày 29/12/1981, Hội đồng Bộ trưởng (hiện nay là Chính phủ) của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

[10] Ban Tôn giáo chính phủ (2014), Niên giám chức sắc, chức vụ, nhà sư tu các tôn giáo là Đại biểu Quốc Hội từ khóa I đến khóa XIV, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2014.

[11] GHPGVN, ”Báo cáo Công tác Phật sự năm 2020”, 06/2021.

Tài liệu tham khảo:.

1. Phát biểu của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng tại Đại hội Thống nhất Phật giáo 04-07/11/1981.

2. Ban Tôn giáo Chính phủ, Báo cáo công tác năm 2020; Báo cáo sáu tháng đầu năm 2021.

3. Ban Tôn giáo chính phủ (2014), Niên giám chức sắc, chức vụ, nhà sư các tôn giáo là Đại biểu Quốc Hội từ kỳ I đến kỳ XIV, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2014.

4. Ban Trị sự Phật giáo Quảng Ninh (2014), ”Hội thảo Trần Nhân Tông”, lưu hành nội bộ.

5. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ”Báo cáo công tác Phật sự năm 2020; Báo cáo sáu tháng đầu năm 2021”.

6. Hội văn nghệ Bắc Ninh (2016), ”Lý Vạn Hạnh và Phật giáo thời Lý”, lưu hành nội bộ.

7. Thích Trí Quảng (2012), Ni giới Việt Nam trong lịch sử dân tộc, Báo Giác Ngộ.

8. Thích Thanh Nhã (2012), Chùa Trấn Quốc, Nxb. Tôn giáo.

9. Thích Trí Tựu trụ trì chùa Thiên Mụ, Văn bia chùa Thiên Mụ Huế.

10. Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng, số 83/BT ngày 29/12/1981.

11. Khánh Bình, ”Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ của Ngô, Đinh và Tiền Lê”, Vườn hoa Phật giáo, truy cập 10/2021, từ www.Vuonhoaphatgiao.Com/lich-su/phat-giao-viet-nam/phat-giao-viet-nam-trong-thoi-ky-ngo-dinh-va-tien-le/.

12. Phúc Nguyên, ”Phật giáo và tác động của Phật giáo trong thời Trần”, Di sản văn hóa của gia đình Trần ở Đông Triều, truy cập 10/2021, từ nhatranodongtrieu.Vn/bvct/chi-tiet/16/phat_giao_va_nhung_anh_huong_cua_phat_giao_duoi_thoi_tran.Html.


Posted

in

by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *