Giới thiệu về phái Tịnh độ trong Phật giáo

Theo Lời Phật tìm hiểu, Tịnh độ tông là một pháp môn dựa trên nguyện vọng ban đầu của Phật A Di Đà, sử dụng sức mạnh của nguyện lực để tạo ra những hành động có ích, đó là để đạt được cõi Tây phương Cực lạc, một thế giới tinh khiết và thanh tịnh hơn nhiều so với thế gian. Người tu Tịnh độ cần phải đặt ra nguyện vọng lớn và thực hiện các hạnh nguyện, phương pháp tu tập và hồi hướng công đức, mong muốn rằng tất cả chúng sinh đều được vãng sinh. Chính sức mạnh của nguyện lực giúp duy trì cõi Tây phương lâu dài, không bao giờ bị suy tàn, và cho phép chúng sinh ở đó tiếp tục tu hành cho đến khi giác ngộ.

Thời gian gần đây, tôi nhận thấy rất nhiều người quan tâm đến bài viết “Ai là Đức Phật A Di Đà?”, Vì vậy hôm nay tôi muốn tìm hiểu thêm về chủ đề này. Trước khi bắt đầu, hãy cùng lắng nghe thầy Duy Lực giảng về Tịnh độ tông. Video Clip: Thiền sư Thích Duy Lực giảng về Tu Tịnh độ khi lâm chung có Phật A Di Đà đến rước, liệu điều này có đúng không?

Tịnh độ tông là một pháp môn tu hành của Phật giáo, dựa vào tha lực để đạt được giác ngộ. Chúng ta có thể sử dụng một hình ảnh để hình dung cho sự nỗ lực tu hành của phật tử. Để đạt được giác ngộ, họ phải vượt qua đại dương bao la, có thể sử dụng hình ảnh Thái Bình Dương để ví von. Những người tự lực phải tự mình bơi qua đại dương, đối mặt với nhiều rủi ro: liệu họ có đủ sức mạnh và ý chí để vượt qua biển cả hay không? Họ có thể mất sức và chìm đắm. Họ có thể bị bão tố quật ngã. Họ có thể bị cá mập tấn công.

Những người xin tha lực mong muốn được lên chiếc thuyền lớn do Phật A Di Đà làm thuyền trưởng, đó là chiếc thuyền Tây phương Cực lạc. Tuy nhiên, việc lên thuyền chưa đủ để đạt giác ngộ hay đến được bờ bên kia. Tương lai có đảm bảo nhưng cần phải nỗ lực không ngừng để tránh nguy hiểm như đuối sức, giông bão, cá mập. Cuối cùng, sẽ đến một ngày không sợ trầm luân nữa. Ngoài việc xin tha lực, tu Tịnh độ cũng cần tự nỗ lực rất nhiều để đạt được kết quả.

Pháp môn Tịnh độ tông cũng có kinh điển riêng bao gồm những kinh luận sau:.

1. Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác kinh (2 quyển).

2. Đại Phật A Di Đà kinh (2 quyển).

3. Vô Lượng Thọ kinh (2 quyển).

4. Quán Vô Lượng Thọ kinh (2 quyển).

5. Phật Thuyết A Di Đà kinh (1 quyển).

6. Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ kinh (1 quyển).

7. Cổ Âm Thanh Tán Đà La Ni kinh (1 quyển).

8. Tịnh Độ Vãng Sinh luận do Bồ tát Thế thân trước tác.

Tuy nhiên, những luận điểm quan trọng nhất của Tịnh độ tông bao gồm: Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Phật Thuyết A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ và Luận Tịnh Độ Vãng Sinh.

Nguồn gốc kinh điển:.

Quyển sách Vô Lượng Thọ kinh, hiện nay được biết đến với tên gọi Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác kinh, được Hạ Liên Cư (1884-1965) – tên thật là Từ Tế – tổng hợp từ 5 bản dịch khác nhau.

Phiên bản dịch cổ nhất được gọi là Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, được Chi Lâu Ca Sấm (Lokakṣema) – một người từ Đại Nhục Chi – dịch từ năm 186 thời kỳ Đông Hán (23-220 CN).

Phiên bản thứ hai của kinh Phật Thuyết Chư Phật A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo được dịch bởi Chi Khiêm vào năm 228 tại quốc gia Ngô trong thời kỳ Tam Quốc. Chi Khiêm là người đến từ Đại Nhục Chi và học trò của Chi Lượng, người cũng là học trò của Chi Lâu Ca Sấm.

Phiên bản dịch thứ ba của Vô Lượng Thọ kinh được dịch bởi Khang Tăng Khải trong năm 252 dưới thời Tào Ngụy, triều đại của vua Tào Phương, tại chùa Bạch Mã ở Lạc Dương (trong thời kỳ Tam Quốc, triều đại Tào Ngụy do Tào Tháo và con trai Tào Phi thành lập ở nước Ngụy).

Phiên bản dịch thứ tư của Vô Lượng Thọ Như Lai Hội được thực hiện bởi Bodhiruci, một người Nam Thiên Trúc, đến Trường An vào thời Đường Trung Tông và hoàn thành vào năm 706. Bodhiruci sống rất lâu, qua đời vào năm 727 (thời Đường Huyền Tông) khi đã 166 tuổi. (Cần lưu ý rằng có hai nhân vật khác nhau mang tên Bodhiruci, một là người gốc Bắc Thiên Trúc đến Lạc Dương vào năm 508, và một là người gốc Nam Thiên Trúc đến Trường An vào năm 683 khi đã 123 tuổi, ông này là người dịch bản kinh này và sống thêm tại Trung Quốc trong 43 năm).

Bản dịch thứ năm của Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh được dịch bởi Pháp Hiền, một cao tăng gốc Tây Vực thời đại Triệu Tống vào năm 980. Triệu Tống là triều đại của Nhà Tống (955-1279), do Triệu Khuông Dận sáng lập. Lưu ý không nhầm lẫn Pháp Hiền với Pháp Hiển, một vị cao tăng đã du hành sang Ấn Độ chiêm bái trong 15 năm (399-414) trước Huyền Trang khoảng hơn 200 năm. (Huyền Trang du hành Ấn Độ 17 năm – 629-646).

Từ thời Đông Hán đến thời Tống, kinh Vô Lượng Thọ đã được dịch sang tới 12 phiên bản khác nhau, tuy nhiên khi Hạ Liên Cư tổng hợp thì chỉ còn có 5 quyển được sử dụng.

Tóm tắt nội dung của Vô Lượng Thọ kinh là miêu tả về đặc điểm của cõi giới Tây phương Cực lạc.

Tôi nghe kể rằng, một lần nọ, đức Phật sống trên núi Kỳ Xà Quật, tại thành Vương Xá, cùng với đại thánh Tỳ kheo và một vạn hai ngàn vị đã chứng thần thông. Trong số đó có Tôn giả Kiều Trần Như, Tôn giả Xá Lợi Phất, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên, Tôn giả Ca Diếp, Tôn giả A Nan và nhiều người khác. Các Bồ tát như Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát và tất cả Bồ Tát trong thế giới hiện tại đến tham dự. Ngoài ra còn có mười sáu vị Bồ tát khác tại nhà, đều là những người tốt. Tất cả các Bồ tát này tuân theo hạnh nguyện của Phổ Hiền Đại sĩ, thực hành vô lượng hạnh nguyện, sử dụng quyền biến phương tiện để đi khắp mười phương và làm các công đức, vào pháp tạng của chư Phật, để giải thoát và nguyện cầu cho chúng sinh ở trong nhiều thế giới khác nhau đồng chứng Phật quả. Khi rời cung trời Đâu Suất, giáng sinh vào cung vua, họ bỏ ngôi vị để xuất gia và học đạo trong khổ hạnh.

Sau đó, trong hành trình trình bày về thiên đàng Cực Lạc của Phật A Di Đà, có hai vị Bồ Tát hỗ trợ là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Đoạn này rất quan trọng, vì vậy tôi xin trích dẫn nguyên văn.

Dịch nghĩa:.

Trong tất cả các giáo pháp, đều có thể thể hiện. Giống như nhà ảo thuật biến ra các hình ảnh kỳ lạ, nhưng những hình ảnh đó không có thật trong thực tế. Các Bồ Tát cũng vậy, họ hiểu rõ bản chất của các pháp, biết mọi hình ảnh của chúng sinh, cúng dường chư Phật, dẫn dắt quần sinh, hiện thân như ánh chớp. Họ phá tan lưới tà kiến, giải thoát dây ràng buộc, vượt xa quả vị Thanh Văn, Bích Chi, chứng nhận ba pháp: Không, vô tướng, vô nguyện. Họ khéo léo sử dụng ba phương tiện để thể hiện ba thừa. Đối với những người đang trải qua khổ đau, họ có thể giúp đỡ và giải thoát.

Chứng đắc vô sinh, vô diệt và các pháp Tam ma địa (Samādhi-chánh định) được tất cả Đà la ni (dhāraṇī-chân ngôn, thần chú) trân quý. Tùy theo thời gian và khả năng, người tu hành có thể đạt được Hoa Nghiêm tam muội (Samādhi-chánh định) cùng với trăm ngàn tổng trì (dhāraṇī-chân ngôn, thần chú) tam muội khác, từ đó trải nghiệm hết vô lượng đức Phật. Trong khoảnh khắc một niệm, người tu hành có thể hiện thân như Phật và thực hiện hạnh nguyện Phổ Hiền.

Thông hiểu tất cả các ngôn ngữ của sinh vật, khám phá hiển thị mối quan hệ chân thật của các luật lệ. Vượt lên trên những giới hạn của thế giới. Tâm luôn giữ vững con đường giải thoát cho sinh vật. Đối với tất cả mọi vật, tự do tự tại. Không làm bạn với cảm giác tham lam. Tiếp nhận và duy trì kho tàng pháp môn sâu sắc của Như Lai, bảo vệ hạt giống Phật để không bao giờ bị mất đi. Đề cao lòng từ bi, thương xót và tình yêu, diễn giải tình cảm, truyền tải thông điệp pháp môn, từ bỏ những thú vui không lành mạnh và mở rộng cánh cửa của tình yêu. Đối với sinh vật, xem chúng như chính mình, đảm bảo cứu giúp và đưa họ vượt qua bờ bên kia (giác ngộ). Thu được tất cả công đức của các vị Phật, trí tuệ và sự thông minh không thể bàn cãi.

Trong đoạn chánh văn trên, có những ý rất sâu cần giải thích thêm:.

Trong một khoảnh khắc niệm, ta có thể đi đến các cõi Phật. Vì tất cả các cõi giới đều là tâm, Như Lai đi hay không đi cũng như nhau. Nói cách khác, chỉ cần khởi niệm, ta có thể đến nơi. Thí nghiệm của Nicolas Gisin và đồng nghiệp tại Đại học Geneva, Thụy Sĩ vào năm 2008 cho thấy rõ ràng tính chất bất định của hạt photon, có thể xuất hiện ở vô số vị trí khác nhau, giống như Bồ Tát Quán Thế Âm, có thể xuất hiện khắp nơi trong Tam giới để giúp đỡ chúng sinh.

(2) Hạnh nguyện Phổ Hiền: Trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.

Khi đó, ngài Phổ Hiền đại Bồ Tát ca ngợi thành tựu đạo đức của đức Như Lai và sau đó, họ nói với các vị Bồ Tát và Thiện Tài:

Xin chào bạn! Công đức của Như Lai, giả sử rằng tất cả các đức Phật ở khắp mười phương, trải qua số kiếp nhiều như cực vi trần trong vô số cõi Phật, diễn tả không ngừng, cũng không thể trọn hết được. Nếu ai muốn trọn được công đức của Phật, thì phải tuân thủ mười điều hạnh nguyện rộng lớn. Mười điều đó bao gồm những gì?

“Một là tôn kính các vị Phật thánh; Hai là ca ngợi các vị Như Lai; Ba là mua sắm đồ cúng dường, bày tỏ lòng thành kính; Bốn là tự trách các tội lỗi đã phạm; Năm là tùy ý thiện hạnh; Sáu là cầu nguyện Phật thuyết giáo; Bảy là cầu nguyện Phật ở lại giúp đời; Tám là luôn học hỏi theo Phật; Chín là tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người hiểu được Phật pháp để tu hành giải thoát; Mười là hướng công đức đến cho tất cả chúng sinh.”

Do đó, nguyện vọng của Phổ Hiền là sự tin tưởng, cống hiến và tích lũy nhiều công đức cho bản thân và cùng hướng về sự giải thoát cho tất cả chúng sinh.

Để mô tả khái niệm vô hạn tức là không có giới hạn, theo kinh nói rất nhiều như vô số cõi Phật, nói mãi không hết. Theo khoa học, số lượng là không thực tế nên trong thí nghiệm của Nicolas Gisin năm 2008 tại Geneva, Thụy Sĩ, hạt photon có thể xuất hiện ở hai vị trí khác nhau, cách nhau 18km theo thiết lập của thí nghiệm. Trong thí nghiệm của Maria Chekhova và các đồng nghiệp tại Viện Khoa học Ánh sáng Max Planck và Đại học Moscow năm 2012, hạt photon xuất hiện ở 100.000 vị trí khác nhau. Vì vậy, số lượng thực tế không tồn tại, ta có thể muốn bao nhiêu cũng được.

(3) Khả năng hiểu được mọi ngôn ngữ của sinh vật là sự thông tha tâm, cho phép hiểu được suy nghĩ và mong muốn của chúng thông qua tâm niệm, không cần phải dùng ngôn ngữ. Trương Bảo Thắng đã thể hiện phép thần thông này một cách rõ ràng. Anh ta chưa từng tiếp xúc với máy tính, nhưng chỉ cần có một chuyên gia ngồi bên cạnh, không cần chỉ dẫn gì, anh ta có thể thao tác trên máy tính một cách thông thạo giống như chuyên gia đó, bởi anh ta có khả năng nắm bắt được tâm niệm của người đó.

(4) Khai hóa thể hiện mối liên hệ chân thật của các sự vật. Tôi ngạc nhiên và khâm phục nhà dịch Phạn – Hán nào đã dịch câu này rất tốt và chính xác. Như vậy, mối liên hệ chân thật là gì? Theo Thuyết Thập nhị nhân duyên của Phật giáo, các sự vật chỉ là mối quan hệ trùng hợp duyên khởi, không có thực tế. Nói cách khác, chúng chỉ là trường (field). Nhưng trong tâm trí của người quan sát, chúng ta cảm nhận được những sự vật như nguyên tử, ví dụ như Hydro và hai đồng vị của nó là Deuterium và Tritium, thực chất chỉ là trường, là mối quan hệ giữa các hạt ảo gọi là các hạt hạ nguyên tử (subatomic particles) và tưởng tượng của người quan sát. Thực tế, không có gì là thật cả, đó chỉ là tánh không của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Tuy nhiên, trong tâm thức của người quan sát, rõ ràng có ba nguyên tử khác nhau.

Hydrogen Deuterium Tritium

Các nhà khoa học hiện nay đã nhận thấy điều này, vì vậy họ đã phát triển một lĩnh vực khoa học được gọi là Cơ học lượng tử tương quan RQM (Relational Quantum Mechanics) để nghiên cứu về thực tế của thế giới, như kinh Phật đã gọi là chân thật chi tế, và họ kết luận rằng:

Thực tế không chủ quan không phải là một sự thật hoàn toàn và không phải là một sự thật độc lập, mà chỉ là một sự thật tương quan.

Thực tế tương quan chính là chân thật chi tế trong kinh điển xưa.

(5) Cho đến với mọi vật, tự do tự tại là tùy ý (於一切萬物,隨意自在 Vu nhất thiết vạn vật, tùy ý tự tại). Bồ Tát có thể tự do tự tại vì đã vượt qua mọi tập khí mê lầm và không còn bị buộc bởi nghiệp nữa, có đủ mọi thần thông. Thực tế, vũ trụ và vạn vật chỉ là ảo, tâm trí có khả năng tạo ra mọi cảnh giới trong nháy mắt vì chúng chỉ là ảo, giống như chúng ta có thể xử lý dữ liệu của thế giới tin học bằng một siêu máy tính vô cùng mạnh, mạnh hơn hàng tỷ tỷ lần so với siêu máy tính mạnh nhất thế giới hiện nay là Thiên hà 2 (Tianhe-2 có thể thực hiện 33,86 triệu tỷ phép tính trong một giây đồng hồ).

Về mặt khoa học, có thể nói, việc tuân thủ tập quán cố chấp đã khiến cho 3 hạt quark bị liên kết với nhau trong cơ cấu của hạt proton và hạt neutron tạo ra hiện tượng giam hãm (confinement), khiến cho nguyên tử vật chất trở nên vững chắc và khó bị phá vỡ. Tuy nhiên, đối với Bồ Tát, không còn tập quán cố chấp đó, nên 3 hạt quark không còn liên kết chặt mà có thể biến đổi dễ dàng theo ý niệm của Bồ Tát. Đây chính là cơ sở khoa học để nguyện lực của Phật A Di Đà tạo ra một thế giới Tây Phương Cực Lạc rộng lớn, đủ chỗ cho tất cả chúng sinh của Tam giới đến đó cư trú, nếu họ phát nguyện muốn vãng sinh đến đó. Biểu diễn của Trương Bảo Thắng dùng ý niệm lấy trái táo ra khỏi thùng sắt bị hàn kín, và của Hầu Hi Quý dùng ý niệm lấy một triệu tiền giấy nhân dân tệ ra khỏi kho bạc ngân hàng có ba lớp cửa sắt khóa chặt, là minh chứng rõ ràng cho triết lý Tam giới duy tâm.

(6) Bởi vì chúng ta làm bạn với chúng sinh, tiếp nhận và duy trì tâm hồn sâu thẳm của Như Lai (thọ trì pháp tạng). Chúng sinh được gọi là chư thứ loại, pháp tạng được gọi là tâm, còn được biết đến như là A-lại-da thức trong Duy Thức học. Đây là nguồn cội của vũ trụ và mọi vật. Phật pháp đã khẳng định rằng vũ trụ và mọi vật đều là hư ảo, chỉ là một chiêm bao giữa ban ngày. Vũ trụ là sự hiện hữu của tâm. Nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới cũng có nghi ngờ rằng mọi vật chỉ là hình ảnh 3 chiều của một kho dữ liệu vô cùng lớn được chứa trong một kho không gian vô hình, nó bị cuốn vào và không thể nhìn thấy, nhưng khi được trải ra, nó trở thành không gian vũ trụ bốn chiều (bao gồm 3 chiều dài, rộng, sâu và 1 chiều thời gian) và có thể có thêm 6 hoặc 7 chiều khác bị cuốn vào và không thể nhìn thấy.

Stephen Hawking và Neil Turok đã nói rằng: “Thế giới lượng tử là một thế giới của các hạt ảo không ngừng dao động qua lại giữa hiện thực và cả không gian trống, của siêu dây rung động và uốn cong trong 10 hoặc 11 chiều kích, trong đó phần lớn những chiều kích đó được “cuộn tròn” và không thể nhìn thấy, là một thực tại trong đó lực hấp dẫn, không gian thời gian và vật chất được hoặc đã được hợp nhất thành một “instanton”. Có 6 hoặc 7 chiều kích bị “cuốn tròn”, là những vũ trụ song song, những cõi khác, hiện hữu đồng thời và trùng lắp với vũ trụ của chúng ta, nhưng vì chúng không thấy được và không cảm nhận được nên chúng ta tưởng rằng chúng không tồn tại. Tuy nhiên, một số nhà ngoại cảm như Phan Thị Bích Hằng đã có thể tiếp xúc được với linh hồn của những người đã qua đời, xác nhận rằng các thế giới như vậy thật sự tồn tại.

Vũ trụ bao gồm cõi trời, cõi địa ngục, cõi tiên, Sắc giới và Vô sắc giới, cùng với Tây phương Cực lạc là những thế giới không thể nhìn thấy. Các Bồ Tát là những người bạn đến để cứu độ chúng sinh khỏi sự mê muội, sử dụng kho pháp của Như Lai để tùy cơ ứng biến và giải cứu chúng sinh.

Phật Thuyết A Di Đà kinh.

Cuốn kinh này ban đầu nằm trong bản dịch thứ hai của bộ kinh Phật Thuyết Chư Phật A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo của Chi Khiêm. Bản dịch này bao gồm hai cuốn kinh, đó là Vô Lượng Thọ Kinh và A Di Đà Kinh. Vì vậy, A Di Đà Kinh là một phần của bộ kinh được tách ra từ bản dịch ban đầu.

Kinh A Di Đà nói về Nơi tịnh xá Kỳ Viên, một địa điểm tôn giáo tại nước Xá Vệ, nơi đức Thế Tôn đã tuyên thuyết. Kinh này giới thiệu về đức Phật A Di Đà, vị giáo chủ chân thành và y báo thù thắng của thế giới Cực Lạc. Trong thế giới này, tất cả các cảnh vật như chim, suối, rừng, cây… Đều được biến hiện bởi nguyện lực của Phật A Di Đà, không phải do nghiệp báo của chúng sinh. Những cảnh vật này có tác dụng khuyến khích hành giả sinh lòng niệm Phật và cầu vãng sinh.

Để đạt được Tịnh độ, chúng ta cần tu tập bằng cách tâm hồn chân thành, chuyên tâm niệm danh hiệu của Phật A Di Đà trong vòng từ một đến bảy ngày. Khi đạt được sự tập trung tuyệt đối, chúng ta sẽ được Phật A Di Đà và Thánh chúng đến tiếp dẫn trong lúc lâm chung.

Quán Vô Lượng Thọ kinh.

Quán Vô Lượng Thọ kinh (觀無量壽經, sa. Amitāyurdhyāna Sūtra) là một bộ kinh giảng về nguồn gốc và phương pháp tu hành trong pháp môn. Theo truyền thuyết, hoàng hậu Vi Đề Hi, mẹ của vua A Xà Thế, bị con trai bắt giam cùng với chồng là vua Tần Bà Sa La (sa., Pi. Bimbisāra). Bà đã cầu nguyện tâm niệm đến Phật và khi Phật hiện ra, bà đã xin được tái sinh tại một nơi yên bình hạnh phúc. Phật đã sử dụng sức mạnh của mình để cho bà thấy nhiều thế giới trong lành yên tĩnh và cuối cùng, bà đã chọn cõi Cực lạc của A Di Đà. Phật đã dạy cho bà phép thiền định để có thể tái sinh tại cõi đó. Phép thiền định này bao gồm 16 phép quán tưởng và tùy thuộc vào nghiệp lực của mỗi người, các phép này có thể giúp tái sinh vào một trong chín cấp bậc của Tịnh độ.

Mười sáu phép quán tưởng đó là:.

Một: quán mặt trời lặn日沒想 (nhật một tưởng).

Hai: quán nước 水想 (thủy tưởng).

Ba: quán đất 地想 (địa tưởng).

Bốn: quán cây cối 樹想 (thọ tưởng).

Năm: quán nước tám công đức 八功德水想 (bát công đức thủy tưởng).

Sáu là quán cung cấp cái nhìn toàn diện về thế giới cực lạc: cây quý, đất quý, hồ quý 總觀想 寶樹、寶地、寶池 (tổng quán tưởng: bảo thọ, bảo địa, bảo trì).

Bảy: quán tòa sen 華座想 (hoa tòa tưởng).

Tám: quán tượng 像想 (tượng tưởng).

Chín: quán khắp tất cả sắc thân tướng 遍觀一切色身相 (biến quán nhất thiết sắc thân tướng).

Mười: quán Quán Thế Âm Bồ Tát chân thực sắc thân tướng 觀觀世音菩薩真實色身相.

Mười Một: quán Đại Thế Chí sắc thân tướng 觀大勢至色身相.

Mười Hai: quán tổng quát rộng khắp 普觀想 (phổ quán tưởng).

Mười Ba: quán nhiều thứ linh tinh khác 雜想 (tạp tưởng).

Mười Bốn: quán ba hạng hóa sinh của bậc thượng căn上品輩生想 (thượng phẩm bối sinh tưởng).

Mười Lăm: quán ba hạng hóa sinh của bậc trung căn中品輩生想 (trung phẩm bối sinh tưởng).

Mười Sáu: quán ba hạng hóa sinh của bậc hạ căn下品輩生想 (hạ phẩm bối sinh tưởng).

Tại đây, tôi không đi chi tiết vào từng phép quán, mà chỉ lựa chọn một phép quán để minh họa, đó là phép quán đầu tiên, quán khi mặt trời lặn. Xin trích dẫn nguyên văn:

Phật khuyên Vi Đề Hy rằng: “Bà và mọi người nên tập trung suy nghĩ về một địa điểm, hình dung về phương Tây như thế nào? Nếu ai đó tập trung suy nghĩ, tất cả mọi người đều thấy mặt trời lặn, và lúc đó sẽ có quán tưởng”.

“Đứng thẳng hướng về phía Tây, tập trung vào bầu trời mặt trời sắp chìm, tâm hồn cảm thấy yên bình và ổn định, tập trung mà không bị phân tâm, cảm nhận như chiếc trống vang vọng.”

”Đã thấy mặt trời lặn rồi, nhắm mắt mở mắt, đều thấy sáng hết”.

”Đó là quán mặt trời, đặt tên là phép quán thứ nhất”.

Những nơi này giúp phật tử có thể nhìn thấy được A Di Đà cùng hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí trong cuộc sống này, đồng thời đó cũng là dấu hiệu rõ ràng cho thấy phật tử sẽ được tái sinh về Tịnh độ.

Các phép quán dựa trên nguyên tắc: Tất cả sự vật thực tế đều có tâm cảnh. Tất cả sự vật, tâm cảnh thật ra là tập hợp các nguyên tắc, là thói quen, là công việc. Vì vậy, các phép quán với lòng tin cao là tạo ra một thói quen tâm linh, thói quen đó là công việc dẫn tới cõi Tây Phương. Luyện tập thói quen tâm linh tinh thông thì sẽ có khả năng như Trương Bảo Thắng và Hầu Hi Quý, có thể dùng tâm niệm điều khiển thân, điều khiển sự vật. Chẳng hạn Hầu Hi Quý đang đứng dưới đường, trong chớp mắt đã ở trên balcony lầu ba. Không phải nhảy từ dưới đường lên lầu ba, mà biến mất ở nơi này, xuất hiện ở nơi khác, không ai, không một máy móc nào có thể thấy được quá trình di chuyển đó, nó không mất thời gian, giống như photon trong hiện tượng rối lượng tử (quantum entanglement).

Trương Bảo Thắng có thể sử dụng suy nghĩ để lấy quả táo ra khỏi thùng sắt bị kín. Anh không sử dụng thần chú (đà la ni – dhāraṇī) vì khả năng của anh là bẩm sinh, không có người dạy, từ nhỏ đến lớn không học với ai. Trong khi đó, Hầu Hi Quý lại sử dụng thần chú vì ông đã được học với thầy là Nga Mi lão nhân. Thần chú chỉ là một lệnh tâm lý. Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, chúng ta có thể hiểu rõ điều này. Thiết bị hiện đại sử dụng sóng não để điều khiển, chỉ cần nghĩ đến, máy sẽ thực hiện. Còn đối với thiết bị thông thường, cần phải sử dụng một lệnh cụ thể để điều khiển.

Ví dụ, để xoá một bài hát trên điện thoại di động, ta có thể sử dụng lệnh xoá trực tiếp trên điện thoại. Tuy nhiên, để thực hiện một cách phép màu hơn, ta có thể kết nối điện thoại với máy tính thông qua wifi. Trên máy tính, ta có thể duyệt qua các thư mục để tìm bài hát cần xoá, sau đó sử dụng lệnh xoá để xoá nó. Như vậy, ta không cần phải chạm vào điện thoại mà vẫn có thể xoá được bài hát. Ta cũng có thể mở và xem video trên điện thoại bằng máy tính thông qua wifi. Tương tự, chúng ta có thể sử dụng laptop để điều khiển, truy cập dữ liệu trên mạng, mà chúng có thể ở rất xa hàng vạn km.

Tóm lại, trong tin học, lệnh có tác dụng tương đương với thần chú trong thần thông hay đặc dị công năng. Thần chú được hiểu là một lệnh cụ thể để điều khiển vật bằng tâm niệm. Cả thế giới đời thường và thế giới tin học đều là thế giới ảo và có thể được điều khiển bằng thần chú hoặc lệnh. Nhiều người khi gặp nguy cấp niệm danh hiệu Quán Thế Âm và thấy Ngài đến cứu. Điều này tương tự với hiện tượng một hạt photon có thể xuất hiện ở nhiều vị trí khác nhau trong thí nghiệm của Maria Chekhova và các đồng nghiệp tại Viện Khoa học Ánh sáng Max Planck và Đại học Moscow vào năm 2012. Thật ra, hạt photon có thể xuất hiện ở rất nhiều vị trí khác nhau.

Tịnh Độ Vãng Sinh Luận.

Bài luận này được viết bởi Thế Thân (Vasubandhu 316-396 CN) để giải thích kinh Vô Lượng Thọ và đề xuất phương pháp ngũ niệm môn để đạt được Tịnh độ. Ngũ niệm môn gồm:

Lễ bái môn: sử dụng việc cúi đầu trước Phật A Di Đà như là một cách thực hành đạo. Cúi đầu có nghĩa là tập luyện. Khi cúi đầu, hãy tập trung suy nghĩ về Phật A Di Đà.

Tán thán môn được sử dụng như một phương pháp tu tập, bao gồm việc khen ngợi và quảng bá về Phật A Di Đà cũng như cõi Tây phương Cực lạc. Bằng cách tán thán ca ngợi, ta có thể tập trung suy nghĩ về Phật A Di Đà.

Phát nguyện môn: Phát nguyện cầu vãng Cực lạc như một hình thức tu tập, luôn nhớ đến cõi Tịnh độ, phát nguyện nhỏ là cầu cho bản thân được vãng sinh, phát nguyện lớn là cầu cho tất cả chúng sinh đều được vãng sinh. Đây là một nguyện vọng tương ứng với nguyện vọng của Phật A Di Đà, giúp cho việc được vãng sinh trở nên dễ dàng hơn. Tương tự như việc bắt sóng của radio, khi đúng tần số sẽ xảy ra hiện tượng cộng hưởng, khuếch đại âm thanh và từ đó mới nghe được âm thanh của đài phát thanh.

Việc quan sát môn này giúp ta hiểu rõ hơn về chánh báo và y báo, hai khía cạnh trang nghiêm và thanh tịnh của cõi Cực lạc. Chánh báo bao gồm 13 trạng huống lành mạnh cho con người, tuy nhiên cần lưu ý rằng chánh báo và y báo chỉ là tưởng tượng, chưa phải là sự giác ngộ thực tế.

1. An lạc vô bệnh.

2. Thọ mạng lâu dài.

3. Thân tướng đẹp đẽ.

4. Không có sự bất bình đẳng về giàu nghèo, sang hèn.

5. Tâm tánh nhu hòa, đạo đức cao thượng.

6. Ðạo tâm kiên cố.

7. Mọi người đều do hóa sinh mà xuất hiện, không phải do thai sinh từ tinh cha trứng mẹ.

8. Không có sự sai khác về nhỏ lớn, già trẻ, mạnh yếu.

9. Luôn thanh tịnh không có ô uế.

10. Tâm trí phóng khoáng, thông đạt.

11. Hết luân hồi trong lục đạo.

12. Ðủ sáu món thần thông.

13. Ðầy đủ huệ nhãn, chánh kiến.

Y báo là 19 cảnh tượng bên ngoài trang nghiêm thanh tịnh của cõi Cực lạc:.

1. Cõi đất bằng phẳng, không có hầm hố nguy hiểm.

2. Mặt đất do bảy báu tạo thành.

3. Khí hậu ôn hòa, không bao giờ có thiên tai, bão lụt.

4. Lưới báu bủa giăng.

5. Sáu thời mưa hoa.

6. Sen báu đầy dẫy.

7. Hóa Phật thuyết pháp.

8. Cây đạo tràng của Phật.

9. Cây báu phát âm thanh.

10. Muôn vật nghiêm lệ.

11. Không có ba đường dữ.

12. Cung điện trang nghiêm.

13. Quốc độ thanh tịnh, không bao giờ có loạn lạc.

14. Hồ tắm trong thơm.

15. Nước hồ lên xuống tùy nguyện.

16. Hương xông ngào ngạt.

17. Thức ăn tinh khiết.

18. Y phục tùy niệm.

19. Chim biết thuyết pháp.

Những tờ báo và tạp chí trên được lựa chọn từ kinh Vô Lượng Thọ. Trong kinh, kể về việc Phật A Di Đà, khi còn là Tỳ kheo Pháp Tạng, đã có ý nguyện xây dựng một thế giới thanh tịnh và trang nghiêm. Vì vậy, Ngài đã xin với đức Phật Thế Tự Tại để thấy được các cảnh giới của 210 ức quốc độ của chư Phật, như một mẫu và được đáp ứng. Sau khi thấy và nghe tường tận các cảnh giới ấy, Pháp Tạng đã trải qua 5 kiếp tu hành để tạo lập được cõi Tây phương Cực lạc, như được kể trên.

Hồi hướng môn: tất cả các công đức đều được cầu nguyện cho tất cả mọi người, để tất cả đều được hưởng phúc vô lượng.

Kết luận: Tịnh độ tông là một pháp môn dựa trên nguyện vọng lớn của Phật A Di Đà, sử dụng sức mạnh của nguyện lực để tạo ra những hành động thiện, và những hành động đó sẽ dẫn đến cõi Tây phương Cực lạc – một thế giới tuy ảo nhưng vẫn thanh tịnh và đẹp đẽ hơn nhiều so với thế gian. Những người tu Tịnh độ cũng phải phát nguyện cầu vãng sinh, thực hành các hạnh nguyện, các phương pháp tu tập và hồi hướng công đức, để cầu nguyện cho tất cả chúng sinh đều được vãng sinh. Nhờ nguyện lực đó, cõi Tây phương được duy trì lâu dài và không bao giờ hủy hoại, các chúng sinh ở đó có điều kiện thuận lợi để tiếp tục tu hành và đạt giác ngộ.

Tìm hiểu thêm về: Tìm hiểu về Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn


Posted

in

by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *