Trên đường vân du
Theo Lời Phật tìm hiểu, Sau khi rời làng Tòng Sơn, Đức Phật Thầy Tây An (tên thật là Đoàn Minh Huyên (1807- 1856), quê ở tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc (nay là huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) đến vùng Bảy Núi, An Giang sáng lập làng dưới chân núi Két. Ông là một nhà sư tình yêu nước có đức tính vĩnh cửu và thành lập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương.
Không chịu khuất phục trước sự áp bức của triều đình nhà Nguyễn và các quan vua phong kiến bị thối nát, Đức Phật Thầy Tây An đã rời bỏ làng. Trên đường đi, ông đã gặp người dân Tòng Sơn đang mắc bệnh dịch tả và lây nhiễm khắp nơi. Khắp nơi đều có người chết vì dịch tả, mà không kịp chôn cất. Cả làng xã đang hoảng sợ, giết heo bò để “tống gió” nhưng vẫn không có hiệu quả. Ban đêm, chó không dám sủa và khi nghe tiếng lộp cộp, nhiều người lại cảm thấy rùng mình vì biết có một cái quan tài mới được đóng lại trong xóm. Nhờ kiến thức của mình về chữ Nho và một số phương pháp y học cổ truyền, Đức Phật Thầy Tây An đã can thiệp để cứu người. Nhờ tài năng của ông mà đại dịch tả đã được đẩy lùi cho người nghèo. Sau khi hết bệnh, người dân đến tạ ơn ông và đó cũng là lúc Phật Thầy Tây An tiếp tục hành trình sang các làng khác để cứu người. Ngoài ra, ông còn dạy mọi người phải đối xử đúng với 4 ơn: ơn tổ tiên, ơn đất nước, ơn Tam bảo và ơn đồng bào nhân loại.
Tìm hiểu thêm: Giới thiệu về Phật giáo Việt Nam: Lịch sử và tình hình hiện tại
Theo truyền thuyết, khi Đức Phật Thầy Tây An đi ngang qua làng Tinh Thới, cây da to tróc gốc ngã xuống sông, lấp cả đường nước đến mức ghe xuồng không thể di chuyển được. Dân làng đã cố gắng kéo cây da đến nửa ngày trời nhưng vẫn vô hiệu. Đức Phật Thầy Tây An đã đề nghị giúp đỡ và bất chấp sức khỏe yếu, ông đã thuyết phục dân làng cột dây kéo cây da. Ban đầu, mọi người không tin rằng ông có thể giúp được nhưng khi ông đứng giơ tay lên hè một phát thì cây da từ từ xếp ngọn vào bờ. Kể từ đó, đường nước được mở trở lại và những ghe xuồng trở lại hoạt động sau mấy ngày đậu lại.
Theo những người trong Ban Quản tự chùa Thới Sơn kể, đạo của Đức Phật Thầy rất đơn giản và tinh tế, đó là đạo giúp người, tu tại gia và luôn quan tâm đến việc giúp đỡ những người nghèo khó. Với uy tín và sự đức độ của Đức Phật Thầy, triều đình phong kiến càng ngày càng lo sợ và tìm cách tống tội cho Thầy. Tuy nhiên, do không có bằng chứng, Thầy đã được phóng thích. Để tránh sự nghi ngờ của nhà cầm quyền lúc đó, Đức Phật Thầy đã tìm đến núi Sam và ở trong một ngôi chùa sẵn có được lập ra bởi phái Lâm Tế và đã được triều đình chứng nhận. Chùa này thờ Phật, tụng kinh và có các nghi thức khác biệt so với hành đạo của Thầy. Để thực hiện giáo pháp vô vi chân truyền, Đức Phật Thầy Tây An bắt đầu tìm kiếm những nơi hẻo lánh để thành lập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, được gọi là Trại ruộng, để đem đạo pháp đến cho tất cả mọi người. Bằng cách này, Thầy đã thể hiện tinh thần của Phật giáo, luôn vì đời và vì người. Lúc này, Thầy đã đến khắp vùng Thất Sơn và thỉnh thoảng đến Trại ruộng để truyền dạy đạo pháp cho tín đồ.
Ông Huỳnh Văn Điều, một cựu chiến binh ở huyện Tịnh Biên, đã chia sẻ những câu chuyện được truyền lại từ các ông bà già khi trở về với vùng Bảy Núi. Đức Phật Thầy Tây An đã tuyển mộ những người tài giỏi và nhận đệ tử ở đây. Nơi đây xưa kia hoang vu, đầy cọp và rắn, nhưng Thầy vẫn ở lại và khai hoang vùng đất này. Thầy còn thành lập 2 làng Hưng Thới và Xuân Sơn, cùng hướng dẫn cho người dân phát triển nông nghiệp. Thêm vào đó, Thầy còn lập 3 cơ sở thờ tự: Chùa Phước Điền (còn được gọi là Trại ruộng); đình Thới Sơn (Trại rẫy); chùa Thới Sơn (còn được gọi là chùa Phật).
Quyết giữ vùng đất thiêng
Theo tác giả nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu, Thất Sơn nằm tại Châu Đốc, đặc biệt là sông Cửu Long và những dãy Thất Sơn. Ở đầu nguồn, sông uốn khúc như “Sơn Long hườn khúc” trước khi chảy vào Việt Nam và nối liền với kênh Vĩnh Tế, tạo nên một khu vực giao hội đầy hấp dẫn. Thất Sơn (hay còn gọi là Bửu Sơn, Bảo Sơn) và Cửu Long (hay còn gọi là Bửu Giang, Bảo Giang) kết hợp với nhau tạo thành một bộ đôi vô giá. Theo các nhà khoa học địa lý, sông Lan Thương (Trung Quốc) là nguồn của sông Cửu Long, được tạo thành từ hai sông Trác Khúc và Cát Khúc. Khi chảy vào Việt Nam, sông chia thành hai nhánh là Tiền Giang và Hậu Giang, và đổ ra biển bằng chín cửa gọi là Cửu Long. Vì vậy, nơi đây được biết đến với cái tên “đất chín rồng”. Một dòng sông bắt nguồn từ vùng đất hoang sơ, núi cao và rừng rậm ngàn năm không có người qua lại, sóng nước to lớn và không ngừng chảy, sẽ trở thành một địa danh linh thiêng và giàu tài lộc.
Được phong làm Đức Quản cơ, Trần Văn Thành cùng một số tùy tùng đã lên núi tìm gỗ “lào táo” để chạm khắc hình búp sen và khắc bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương” vào khoảng năm 1851. Sau đó, họ đã đem cắm 5 cây thẻ ở 4 phương và 1 cây thẻ tại trung tâm để tôn vinh “hồn thiêng sông núi”.
Sau khi thực hiện tìm hiểu và đi thực tế, chúng tôi đã biết rằng cây thẻ số 1 (Đông phương Thanh Đế) đã được cắm tại làng Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành. Cây thẻ này được cắm khuất dưới hòn non bộ nằm ở bàn thông thiên có “quần long phục thức”. Nó trông rất nghiêm trang và huyền bí, bên trong là Dinh Quan Thẻ thờ “Tiền Đình Hậu Tự”, trước thờ Quan Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung Trực. Cây thẻ số 2 (Bắc phương Hắc Đế) được cắm tại làng Vĩnh Thạnh Trung (Châu Phú). Cây thẻ này rất nổi bật với vải đỏ được quấn quanh và được thờ trong một đền thờ giữa hai hàng gươm giáo. Cây thẻ số 3 (Tây phương Bạch Đế) được cắm tại chùa Bồng Lai Cổ tự, ven kênh Vĩnh Tế (Châu Đốc). Trong khi đó, cây thẻ số 4 (Nam phương Xích Đế) được cắm tại làng Vĩnh Điều, huyện Kiên Lương (Kiên Giang), nhưng vì nằm giữa rừng tràm ngập nước nên vị trí chính xác không thể xác định được và đã bị thất lạc cho đến ngày nay. Cuối cùng, cây thẻ số 5 (Trung ương Huỳnh Đế) được coi là cây thẻ chính và nằm tại ấp Vồ Đầu trên núi Cấm, đây là nơi trung tâm.
Theo nhà nghiên cứu dân gian Nguyễn Hữu Hiệp, việc Đức Phật Thầy Tây An gửi đệ tử cắm thẻ ở những nơi xác định là một phương tiện để đánh dấu ranh giới hoặc để biết rõ ranh giới của đất. Các mốc giới này được sử dụng để giới hạn và xác định vùng đất này đã có chủ. Theo giảng dạy của Đức Phật Thầy, cắm thẻ là để ngăn chặn “kẻ xấu” xâm phạm chủ quyền địa giới, chứ không phải để giải quyết hoặc ngăn chặn tranh chấp giữa các bên.
Với tinh thần bảo tồn, đặc biệt là bảo tồn những cổ vật mang tính tâm linh, những người theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương đã thực hiện việc nhổ bỏ một số cây thẻ đặt trong lồng kiếng thờ trong ngôi miếu. Theo tín ngưỡng dân gian Nam Bộ, việc này được coi là “vật thiêng” và được nhân cách hóa thành “ông Thẻ”. Tương tự, con cọp được gọi là “ông Cọp”, con cá sấu được gọi là “ông Năm Chèo”, và đôi trâu của Đức Phật Thầy Tây An được gọi là “ông Sấm, ông Sét”… Những cây thẻ cắm ở các nơi thuộc vùng Thất Sơn có thể có ý nghĩa như những cột mốc để người theo đạo biết cách bảo vệ “chủ quyền”, ngăn chặn kẻ xấu xâm lấn và cướp đoạt thành quả do chính họ khai phá – ông Nguyễn Hữu Hiệp xác nhận.
Hào khí Bảy Thưa
Hiện nay, khi nhắc đến Đức Phật Thầy Tây An và “12 vị đức nhân” của ông, đặc biệt là Đức Quản cơ Trần Văn Thành được người dân Nam Bộ luôn tôn trọng và nhớ đến.
Vào dịp kỷ niệm 140 năm ngày hy sinh của Đức Quản cơ Trần Văn Thành và cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, chúng tôi đã đến xã Thạnh Mỹ Tây (Châu Phú). Lễ hội thu hút hàng chục ngàn người dân từ khắp nơi đến để cúng viếng. Khi nhắc đến cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa do Đức cố Quản Trần Văn Thành khởi xướng, nhiều người dân địa phương nhớ rất rõ. Cuộc khởi nghĩa của “đạo binh” Trần Văn Thành được xem như một dấu son chói lọi trong sự nghiệp chống ngoại xâm và giành độc lập cho dân tộc.
Khi nhắc đến khoảnh khắc lịch sử đó, ông Phạm Công Thưởng (84 tuổi) cháu họ của Đức cố Quản Trần Văn Thành vẫn còn nhớ rõ về sự vĩ đại của ông mình. Cụ Phạm Công Thưởng xúc động kể lại rằng: “Ông cố tôi có tên thật là Trần Văn Thành (1817-1873), quê ở làng Bình Thạnh Đông (nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân), là một đồ đệ giỏi của cụ Đoàn Minh Huyên. Nhờ tài năng văn võ song toàn, ông được tuyển dụng làm chức Suất đội chỉ huy khoảng 50 binh sĩ. Sau đó, ông tôi đã cùng các tướng lĩnh nhà Nguyễn đánh bại quân xâm lược Xiêm La và Chân Lạp. Với những chiến công vang dội, ông được thăng chức từ Suất đội lên Chánh Quản cơ chỉ huy 500 binh lính. Theo sự ghi chép lịch sử, khoảng tháng 6-1867, quân đội Pháp chiếm thành Châu Đốc, ông tôi đã dẫn toàn bộ lực lượng về Láng Linh xây dựng căn cứ địa kháng chiến lâu dài…”.
Nói về khu vực Láng Linh xưa, ông Phạm Công Thưởng cho biết rằng đó là một cánh đồng rộng lớn, không có kênh rạch dẫn vào, đầy những loại cây mọc kẹo nẹo, nhiều nơi có nước đọng sình lầy quanh năm và cũng có nhiều thú dữ và rắn độc. Xưa kia, vùng này ít người đến, ngoại trừ những thợ săn và những người theo giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương của Đức Quản cơ Trần Văn Thành. Với địa thế hiểm trở, ông đã chọn nơi này làm căn cứ vững chắc. Tại đây, Đức Quản cơ Trần Văn Thành đã chiêu binh, xây dựng đồn trại và dự trữ lương thực để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa.
Vào tháng 4 năm 1872, Trần Văn Thành đã khởi nghĩa và tấn công các khu vực bị Pháp chiếm đóng xung quanh Long Xuyên, Châu Đốc và Tịnh Biên. Cuộc khởi nghĩa này đã khiến cho quân Pháp sợ hãi và cảm thấy kinh ngạc trước sự đoàn kết và dũng cảm của binh đội này. Kể từ đó, căn cứ địa Bảy Thưa đã trở thành một vấn đề nhức nhối đối với Pháp tại Nam Kỳ vào thời điểm đó.
Theo ông Nguyễn Hữu Hiệp, khoảng tháng 6-1872, quân Pháp tấn công Giồng Nghệ theo kênh Mặc Cần Dưng. Dù bị tấn công bất ngờ, chủ tướng Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh và sử dụng ống loa để khích lệ tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Quân sĩ đã hò reo và trống thúc giục liên tục, khiến giặc phải lâm vào tình trạng hoảng sợ. Ông cắt từng lọn tóc nhỏ của mình để truyền cảm hứng chiến đấu cho binh sĩ. Với tinh thần quyết tâm, nghĩa quân Bảy Thưa đã chiến đấu kiên cường đến cùng. Tuy nhiên, do sức yếu thế cô và không nhận được sự viện trợ, nghĩa quân Bảy Thưa đã phải rút lui và một số binh sĩ bị bắt hoặc hy sinh… Sau trận chiến thất bại, Đức cố Quản Trần Văn Thành đã rút lui về vùng Bảy Núi để tránh sự truy đuổi của quân Pháp.
Đi vào tiềm thức dân gian
Vào ngày 21 và 22-2 âm lịch hàng năm, Ban Quản nghi lễ Dinh Đức cố Quản Bửu Sơn Tự và huyện Châu Phú tổ chức lễ hội truyền thống để tưởng nhớ công lao to lớn của Đức cố Quản Trần Văn Thành. Đền thờ Đức cố Quản Trần Văn Thành tại xã Thạnh Mỹ Tây (Châu Phú) thu hút hàng vạn người đến cúng viếng. Từ năm 2003, huyện Châu Phú đánh dấu ngày Quản cơ Trần Văn Thành chống pháp hy sinh và cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa thành Lễ hội Văn hóa truyền thống. Nhiều công trình đã được trùng tu, tôn tạo để nâng cấp khu di tích căn cứ Láng Linh phù hợp với tầm cao của lễ hội văn hóa. Ngoài ra, tượng đài Đức Quản cơ Trần Văn Thành được đặt tại trung tâm huyện.
Trên lãnh thổ tỉnh An Giang có tới 7 điểm tôn thờ Đức Quản cơ Trần Văn Thành, gồm miếu, đình và dinh, được xây dựng tại các xã thuộc các huyện Phú Tân, Châu Phú và Châu Thành. Ngoài ra, các địa phương còn đặt tên đường, trường học và địa danh theo tên ông. Đáng chú ý, vào ngày 6-12-1989, Dinh Đức cố Quản Bửu Sơn Tự đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử văn hóa. Để thu hút khách du lịch đến tham quan, các ý kiến đề nghị cần phục dựng một số công trình tiêu biểu ngoài trời, như hình ảnh đại đồn Hưng Trung, các đồn – bót canh phòng và cơ sở sản xuất nuôi quân, lò rèn vũ khí, xây dựng trên mặt phục dựng một góc rừng cây bảy thưa của căn cứ nghĩa quân xưa để phản ánh công cuộc kháng Pháp của Đức cố Quản theo hình tượng sa bàn có tỷ lệ phù hợp. Ngoài ra, còn xây dựng thêm các khu hoạt động văn hóa, khu hoạt động thể dục, thể thao, khu khai thác lợi thế du lịch xanh, khu dịch vụ và khu quảng trường hoa viên cây cảnh để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
Nếu các khu vực này được thực hiện, trong tương lai, Di tích Dinh Đức cố Quản Trần Văn Thành sẽ trở thành một khu di tích văn hóa lịch sử và du lịch quan trọng, đóng góp cho sự phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Đồng thời, nó cũng nhắc nhở cho con cháu về tinh thần yêu nước của Đức Quản cơ Trần Văn Thành trong cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa.
Https://vanhoatamlinh.Com.
Khám phá về văn hoá tâm linh của người Việt từ thời xa xưa đến hiện nay. Phong tục, tập quán và tín ngưỡng (bao gồm Phật giáo, Công giáo, Tin lành và Đạo Mẫu).
Trả lời