Đức Thánh Cả Hưng Vũ Đại Vương – Trần Quốc Nghiễn

Tiểu sử Hưng Vũ đại vương – Trần Quốc Nghiễn

Theo Lời Phật tìm hiểu, Trần Quốc Nghiễn là con trai lớn của Vương tử Đức Thánh Trần. Ông đã kết hôn với công chúa Thiên Thụy vào năm 1282 và trở thành phò mã của vua Trần Thái Tông. Ông là một tướng tài ba, có tài văn võ đồng thời là người con hiếu thảo, trung thành với bề tôi.

Trong trận chiến chống lại quân xâm lược Nguyên – Mông, Trần Quốc Nghiễn cùng với cha là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và các danh tướng nhà Trần đã đạt được nhiều thành tích nổi bật.

Trong khoảng thời gian đánh đuổi quân Nguyên vào tháng 4 năm 1289, triều đình đã bổ nhiệm Hưng Đạo Vương làm Đại Vương, Hưng Vũ Vương làm Khai Quốc công và Hưng Nhượng Vương làm Tiết độ sứ.

Trong vùng đất Quảng Ninh, Hưng Vũ Đại Vương để lại dấu ấn không rõ ràng như Đức Ông Đệ Tam Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, tuy nhiên ông đã đóng góp không thể thiếu trong chiến công chung của quân dân nhà Trần, đặc biệt là trong trận chiến trên sông Bạch Đằng lần thứ 3 năm 1288. Để tôn vinh công lao của ông trong việc đánh bại giặc tại vùng Đông Bắc Tổ quốc, người dân đã xây dựng một ngôi đền nhỏ bên núi Bài Thơ (Quảng Ninh).

Hưng Vũ đại vương Trần Quốc Nghiễn mất ngày 24 tháng 4 âm lịch.

Hầu giá Đức Thánh Cả

Tương tự như các vị quan Tứ Vị Vương Tử, khi thỉnh giá Đức Thánh Cả, ngài mặc áo đỏ, má xuyên hai lình, miệng ngậm hai quả cau non, vắt chéo lình lên trên, khăn buộc áp trên đầu. Khi thỉnh giá, Đức Thánh Cả múa kiếm, sau đó đập vỡ đĩa sành.

Tiếp theo, Ngài sử dụng một miếng sành để cắt một miếng vải nhỏ, sau đó uốn cong thành hình người để tạo ra bùa trừ tà ma và bệnh tật. Nếu có ai bị bịch tật hoặc đóng vía (thường là trẻ con và phụ nữ), thì bùa sẽ được đốt và dung nạp vào nước uống để giải trừ.

Đền thờ Đức Thánh Cả Hưng Vũ đại vương Trần Quốc Nghiễn

Đền Đức Thánh Cả thuộc quần thể di tích lịch sử núi Bài Thơ, được Bộ Văn hoá – Thông tin và Thể thao xếp hạng Di tích lịch sử, danh thắng cấp quốc gia vào năm 1992. Ngoài việc thể hiện lòng tôn kính đối với công ơn của bậc thánh nhân, du khách còn có cơ hội chiêm ngưỡng khung cảnh tuyệt đẹp và di tích lịch sử đặc sắc tại đây, nơi được ghi nhận tên gọi Phúc Linh Từ hay Đền Phúc Linh.

Đền thờ Đức Thánh Cả Hưng Vũ đại vương Trần Quốc Nghiễn là một công trình kiến trúc đặc biệt của dân tộc Việt Nam, với ý nghĩa tôn vinh vua Trần Quốc Nghiễn - người đã có những đóng góp vô giá cho sự phát triển của đất nước. Nơi đây là địa điểm hành hương quan trọng, thu hút đông đảo du khách đến tham quan và tìm hiểu lịch sử văn hóa của Việt Nam.

Lễ hội tại đền Đức ông Trần Quốc Nghiễn được tổ chức vào ngày 29, 30 tháng 4 âm lịch hàng năm, là một di sản văn hóa đặc trưng của cả thành phố Quảng Ninh và người dân Hạ Long đặc biệt.

Đền thờ Đức Thánh Cả Hưng Vũ đại vương Trần Quốc Nghiễn là một công trình kiến trúc đặc biệt của dân tộc Việt Nam, với ý nghĩa tôn vinh vua Trần Quốc Nghiễn - người đã có những đóng góp vô giá cho sự phát triển của đất nước. Nơi đây là địa điểm hành hương quan trọng, thu hút đông đảo du khách đến tham quan và tìm hiểu lịch sử văn hóa của Việt Nam.

Lễ hội tại đền Đức Thánh Cả thu hút nhiều tín đồ Phật giáo, khách hành hương và du khách đến tham quan cửa đền để cầu nguyện cho một năm mưa thuận gió hòa cho ngư dân và những người sống ven biển. Hoạt động này cũng giúp cho các em nhỏ hiểu thêm về truyền thống lịch sử và tình yêu đất nước.

Bản văn Đức Thánh Cả

Thủa ngô binh xâm lăng xã tắc.

Theo phụ vương thống lĩnh tam quân.

Trấn Hạ long là nơi hiểm địa.

Chặn thát quân trận mạc tung hoành.

Đức Thánh cả oai hùng võ liệt.

Khai Quốc công thượng đẳng tước vương.

Trên tướng sỹ quân gia đều phục.

Lục bộ trần triều tuân phụng vương ông.

Vẻ phượng tốt vũ mao cũng tốt.

Tinh lân nhân sừng sót cũng nhân.

Xưa nay con Thánh cháu Thần.

Khuôn giời lại đúc thành Thần như in.

Thủa thời thế giáng sinh tinh tú.

Trong triều Trần nhiều bậc hiền anh.

Thái sư khôn ngoại cầm quyền.

Việt tộc chống với Nguyên Mông mấy lần.

Việc nước nhà muôn phần gian đại.

Nghĩa chí thân đành phải ra tay.

Hoàng thiên chứng dạ thảo ngay.

Lại sinh thánh tử để thay việc người.

Võ lược văn thao xuất xung trận mạc.

Quyền trí kế mưu nhất bậc anh tài.

Công hộ quốc ở sau vương phụ.

Sắc ban danh Hưng Vũ Đại Vương.

Lưu danh Thánh cả Trần triều.

Hoàng đế mến ban hôn công chúa.

Phò mã gia kiêm tước Vũ Vương.

Trải trăm trận ngô binh khiếp vía.

Khi giặc tan phò trợ quân vương.

An thiên hạ cơm no áo ấm.

Dâng sớ.

A tấu sớ Thiên Đình ông lên tấu sớ Thiên Đình.

Nam Tào Bắc Đẩu Chúa biên rành rành.

Chúa cho đôi chữ trường sinh.

Chữ phú chữ quý, khang ninh thọ trường.

Năm cờ sai trấn năm phương.

Khai quang.

Có lệnh truyền ra Thánh Ông có lệnh truyền ra.

Các quan thoải bộ cùng là chư dinh nam ninh non phạt nam thành.

Đánh đông dẹp bắc tung hoành mọi nơi đông thời cửa thiếu cửa đoài.

Ngự lên đồng tử cứu này nhân gian cứu đâu thời đó được an.

Cấp sai binh tướng áp lai tĩnh đường A.

Se khai quang dung nhan thật kỳ diệu.

Quang minh chiếu thập phương.

Ngã tích tang cúng dàng.

Kim phụng hoàng thân cận.

Phật Thánh chúa tiên trung vương.

Ca lăng tần già thanh từ bi mẫn chúng sinh.

Cố ngã kim đỉnh lễ….

Giải đàn.

A án Nhật nguyệt quang minh.

Tan phong vũ lui miền Trấn địa.

Đất cũ kia thủ vững ơn vua.

Tụ dân tán Hải Dương lập ấp.

Chiến tranh qua hưởng phúc thái bình .

Tài an bang tế thế độ dân.

Trải trăm chiến trận tung hoành.

Giặc nguyên nghe tiếng sợ danh Trần triều.

Trong tam cõi nức danh trung liệt.

Sống anh Hùng thác lại anh linh.

Muôn dân tôn phụng Thánh Ân.

Cung văn con khải Thánh vương ngự về.

Giáng đàn trung uy hùng hiển hiện.

Tróc tà tinh cứu trợ dân ta.

Cân đai mũ mã ra uy khám đàn.

Phép ông đôi má thu phình.

Cổ lên khăn ấn xiên lình ra oai.

Vồ đập khảo chân đi than lửa.

Chảo dầu sôi đợi sẵn yêu ma.

Tay ấn quyết ra uy dấu mặn.

Thần phù ra cứu độ dân oan.

Vương sai lục bộ đáo lai đàn sở.

Tróc tà tinh lưới bổ ghê thay.

Thu quân tà khí chớ chầy mau mau.

Này oan gia ông bầy cho giải.

Kết nghiệp kia ông giải cho tan.

Kiếp người nhiều lỗi dây oan nghiệt.

Tu ngay đi nghiệp mới cắt song.

Oán kết kia bao đời tích tụ.

Giải kết thôi không khổ đời sau.

Đàn này ông lệnh mau mau.

Oan oan tương báo ngày nào dứt đây.

Còn ngoan cố bao giờ mới dứt.

Cậy phép tà làm loạn nhân sinh.

Phép vương ông trị tội gia hình.

Ân thánh Đức ông đây ban phép.

Độ dân ta gây dựng giống nòi.

Phu Thê cầm sắt không con.

Xin ông sẽ được vuông tròn nghe chưa.

Rồi ấu sinh lại hay phải vía.

Dạ đề đêm khóc thét bòn mình .

Rồi thì trẻ ốm héo mòn.

Rồi thì sản phụ hậu bòn huyết băng.

Nhà đất dữ ông đây ban phép.

Lưỡi cày ban trấn trạch nghe không.

Tiền duyên dâm quỷ dâm vong.

Thần phù xin cửa Đức ông.

Tà ma quỷ quái đừng hòng phá dân.

Kíp mau mau mời ông lai giáng.

Lễ vật kia sửa soạn bầy lên.

Thành tâm bái nguyện đến ông.

Ngự đồng ban ấn ơn trên gia trì.

Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.

Tìm hiểu thêm: Vương Cô Đệ Nhất là ai và đền thờ ở đâu?


by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *