ĐỨC PHẬT THÍCH CA: LỊCH SỬ VÀ HUYỀN THOẠI.
Thích Nữ Hằng Như
Theo Lời Phật tìm hiểu, trước khi học lại Tiểu Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, để người đọc hiểu rõ hơn về thời gian được ghi trong tiểu sử của Ngài, chúng tôi xin nhắc lại là Đức Phật Thích Ca sinh vào năm 624 trước Dương Lịch. Ngài gia nhập Niết Bàn lúc 80 tuổi vào năm 544 trước Dương Lịch. Sáu trăm hai mươi bốn năm sau, phương Tây mới bắt đầu chọn năm sinh của Đức Chúa Jesus Christ làm điểm khởi đầu cho Lịch Dương. Vì vậy tính đến nay là năm 2018 thì Đức Phật đã ra đời được 2,642 năm và theo lịch Phật tính từ năm Đức Phật viên tịch (năm 544 trước Dương Lịch) thì Ngài đã gia nhập Niết Bàn được 2,562 năm.
Việt Nam và các quốc gia ở khu vực Đông Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên … Từ lâu đã tổ chức Lễ Phật Đản vào ngày mồng 8 tháng Tư Âm Lịch. Tên gọi ngắn gọn cho ngày Lễ Phật Đản là “Ngày mồng Tám tháng Tư” đã tồn tại suốt nhiều thế kỷ, trở thành phong tục truyền thống, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn của mọi người bất kể họ theo Phật giáo hay không.
Vào thế kỷ 20, trong kỳ Đại lễ kỷ niệm Phật Giáo Thế Giới tổ chức tại Tích Lan năm 1954-1956, Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới (The World Fellowship of Buddhists) quyết định chọn ngày trăng tròn 15 tháng 4 Âm lịch làm ngày kỷ niệm Đức Phật ra đời. Đó là lý do tại sao có 2 ngày kỷ niệm Đức Phật ra đời là ngày 8 tháng Tư Âm lịch (trước đây) và ngày Rằm tháng Tư Âm lịch (hiện nay).
Nhân dịp kỷ niệm ngày Lễ Khánh Đản của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về cuộc đời của Ngài để có kiến thức về một nhân vật vĩ đại đã để lại một kho tàng văn hóa Phật giáo to lớn gồm 12,601 bài giảng trong suốt 45 năm hoằng pháp. Dù đã trôi qua 2,562 năm kể từ khi Đức Phật viên tịch, triết lý đó vẫn được mọi người trên thế giới, bao gồm cả những người theo đạo Phật và những người không theo đạo Phật, nghiên cứu và học tập.
Trình bày về tiểu sử Đức Phật, người Phật tử có hai cách nhìn. Một là Đức Phật thần thoại được ghi lại đầy đủ trong bộ kinh Phật Tổ Thống Ký (Bắc Tông) Bộ kinh này miêu tả rất chi tiết về sự kiện đản sanh của Đức Phật, thậm chí còn kể rõ Ngài là một vị Bồ Tát trú ngụ trên cõi trời, đản sinh xuống cõi người. Cái nhìn thứ hai khoa học hơn, cũng theo kinh sử để lại thì Ngài là một người bình thường như bao nhiêu người khác, có cha mẹ, vợ con, có những ưu tư về cuộc sống đau khổ của con người nên muốn tìm phương pháp để thoát ra khỏi cái vòng luân hồi sanh tử. Giai đoạn học đạo với 2 vị đạo sĩ nổi tiếng thời ấy là đạo sĩ Alãra Kãlama và Uddaka Ramãputta cũng như nhập đoàn với năm anh em đạo sĩ Kiều Trần Như suốt 6 năm tu khổ hạnh cũng không có gì khác biệt giữa vị Phật thần thoại và vị Phật lịch sử.
Vì vậy, trong bài viết này chúng tôi xin phép sử dụng tựa đề là “Đức Phật Thích Ca: Huyền Thoại (tôn giáo) và Lịch Sử”. Bài viết chỉ tóm tắt về cuộc đời sinh ra của Ngài, không phát triển chi tiết khác, bởi vì chỉ có một số ngàn từ theo quy ước này, không thể diễn tả được toàn bộ cuộc đời của một bậc đại Giác Ngộ như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Tượng Thái tử Sĩ Đạt Ta lúc ra đời
ĐỨC PHẬT TÔN GIÁO / HUYỀN THOẠI.
Từ lâu, để hình thành một tôn giáo ít nhất phải đáp ứng một số điều kiện như sau: Cần có một người lãnh đạo có nhiều câu chuyện huyền thoại khiến người ta tôn kính và tin theo, cần có giáo lý, tín đồ và nghi lễ riêng của tôn giáo đó.
Về phần lịch sử, đạo Phật là một triết lý, một con đường tu học dẫn đến việc mở rộng trí tuệ tâm linh do Đức Phật, người đã từng là một người bình thường, đã tu học và truyền bá những kinh nghiệm của mình cho người khác.
Sau khi Đức Phật qua đời, sau đó đạo Phật ra đời. So sánh với những điều kiện nêu trên, đạo Phật có thể được xem như một tôn giáo, vì nó cũng đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn như:
Đạo Phật có Giáo Chủ là Đức Bổn Sư Thích Ca. Cuộc sống của Ngài cũng có nhiều truyền thuyết. Ví dụ như Ngài là vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ tát Hộ Minh trên thiên đình Đâu Suất đã trải qua vô số kiếp, chỉ còn một kiếp nữa là sẽ trở thành Phật. Từ thiên đình Đâu Suất, Ngài nhìn xuống thế gian để tìm Cha Mẹ có phẩm chất tốt nhập thai xuống thế tục để tiếp tục tu hành một kiếp cuối cùng để đạt được Chánh Quả.
Đạo Phật có giáo điều để truyền bá cho đồng đạo. Số lượng kinh sách được phân thành 2 nhánh: Nikãya (Nam Tông) và A-Hàm (Bắc Tông). Tại Việt Nam, chúng ta đã dịch kinh sách Phật Học sang tiếng Việt, mặc dù chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng cũng khá nhiều. Nói chung, tổng cộng có 4 nhánh Nikãya với 12,601 bản kinh, chưa tính Tiểu Bộ kinh. Còn 4 nhánh A-Hàm có 2,086 bản kinh. Tổng cộng, Đức Phật đã để lại cho đồng đạo 14,687 bài giảng.
Hiện tại có khoảng hơn 800 triệu người theo đạo Phật trong số trên 7 tỷ người trên trái đất này.
Quay lại cuộc đời của Đức Phật tôn giáo hay nói khác là truyền thuyết về Đức Phật Thích Ca. Như đã đề cập ở trên, Bồ Tát Hộ Minh đã trải qua hàng triệu kiếp tu từ trước đó, chỉ cần một kiếp cuối cùng thì Ngài sẽ trở thành Phật. Lúc đó, Bồ Tát đang ở trên Thiên cung Đâu Suất và nhìn xuống thế gian để tìm một gia đình phù hợp để nhập thai. Người mẹ mà Bồ Tát đã chọn là Hoàng hậu Mahã Maya.
Câu chuyện về Hoàng Hậu Maya là một người có đạo đức cao và rất từ bi. Bà là vợ của vua Tịnh Phạn ở thành Ca-Tỳ-La-Vệ, đã già nhưng chưa có con. Một ngày nọ, vào buổi trưa, khi Đức Hoàng hậu đang nghỉ, bà đã mơ thấy 4 thiên thần nâng 4 góc giường và bay lên đỉnh núi Hy-Mã-Lạp-Sơn. Tại đó, có một con voi trắng 6 ngà từ trên trời bay xuống và chui vào phía bên phải của bà. Hoàng hậu tỉnh giấc, cảm thấy mát mẻ và dễ chịu trong cơ thể, tinh thần cũng sảng khoái. Vào lúc đó, Hoàng hậu đã thụ tinh.
Theo phong tục Ấn Độ, phụ nữ khi mang thai phải quay về quê cha mẹ để sinh con. Hoàng hậu Maya cũng không là ngoại lệ. Gần đến ngày hoa nở rộ, trên đường về quê cha mẹ, đến vườn Lâm Tỳ Ni nằm ở biên giới giữa hai nước Kosola (Nepal) và Ca-Tỳ-La-Vệ (Bắc Ấn Độ), Hoàng hậu đã ra lệnh cho đoàn giám hộ dừng lại để nghỉ ngơi vì không khí ở đây thật dễ chịu và hương hoa nhẹ nhàng bay trong gió. Đoàn giám hộ đã dừng lại. Khi Hoàng hậu Maya từ từ đi vào rừng để ngắm cảnh, bà đã thấy một cây lớn có nhiều bông hoa đẹp mà trong sách kinh ghi là hoa Linh Thoại, còn được gọi là hoa Vô Ưu. (Theo truyền thuyết, loại hoa này chỉ nở một lần sau 3,000 năm, nhưng nếu hoa nở trái mùa, nó có thể là dấu hiệu cho thấy sẽ có một sự giác ngộ trong tương lai sắp tới.)
Về truyền thuyết về Đức Phật, câu chuyện kể rằng, khi Hoàng hậu Maya đưa tay phải lên cành cây Vô Ưu thì Thái tử ra đời, Ngài sanh từ bên hông phải của bụng mẹ. Lúc đó có ngay 2 vị Phạm Thiên xuất hiện để giữ Ngài. Hai vòi nước một nóng một lạnh được 2 con rồng phun ra từ trên cao để tắm cho vị hoàng tử mới sinh.
Tích cũ tiếp tục kể, Thái tử mới sinh đã đi bảy bước, mỗi bước có một bông sen nở ra để che chắn cho chân của Thái tử. Khi đến bước thứ bảy, Thái tử giơ một tay chỉ ngón trỏ lên trời, một ngón tay chỉ xuống đất và nói:
“Thiên thượng thiên hạ chỉ có một người duy nhất” có nghĩa là “Trên trời dưới đất chỉ có một người (tức là tôi) là số một” … Sau đó tôi đã trở lại cuộc sống như một đứa trẻ mới sinh bình thường khác.
Thái tử Sĩ Đạt Ta sanh ra tại vườn Lâm Tỳ Ni Nepal năm 624 trước Tây Lịch (tranh huyền thoại)
Khi Thái tử mới sinh được 5 ngày, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) đặt tên cho con trai là Siddhattha (tiếng Sanskrit) phát âm tiếng Việt là Sĩ-Đạt-Ta, họ là Gotama, phát âm tiếng Việt là Cồ Đàm. Tiếng Pãli là Siddharta Gautama. Ngài thuộc dòng họ quý tộc Thích Ca (Sakiya).
Theo phong tục thời xưa, vua đã mời nhiều nhà học trình cao từ Bà La Môn vào triều để đặt tên và xem tướng cho Thái tử. Có tám nhà học đã vào cung để xem tướng cho Thái tử. Bảy người đã giơ lên 2 ngón tay và giải thích hai điều: Một là Thái tử sẽ trở thành Hoàng đế vĩ đại nhất thế giới, hai là Ngài sẽ trở thành Phật và đạt được quả đúng đắn. Riêng nhà học trẻ tuổi tên là Kiều Trần Như (Kondanna) đã nói rằng sau này Thái tử sẽ xuất gia và đạt được sự Chánh Đẳng Chánh Giác.
Trước đó, có một vị tu sĩ tên là A-Tư-Đà (Asita) là một người tin cậy của vua tu hành trên núi Hy-Mã-Lạp-Sơn, khi nghe dân gian đồn đại rằng Hoàng hậu Maya vừa sinh con trai, ông xin được vào thăm Thái tử. Vua Tịnh Phạn vui mừng, cho đưa Thái tử ra tiếp đón tu sĩ. Tu sĩ A-Tư-Đà nhìn mặt Thái tử rồi tiên tri rằng từ nay về sau Thái tử sẽ trở thành người vĩ nhân cao quý nhất của nhân loại. Sau khi nói xong, ông quỳ gối lạy Thái tử. Thấy tu sĩ già lạy con mình như vậy, vua Tịnh Phạn cũng làm theo tu sĩ, chào con mình.
Kế tiếp, đạo sĩ đột ngột nở nụ cười rồi lại khóc. Vua và mọi người ngạc nhiên trước những cảm xúc vui buồn của đạo sĩ, hỏi tại sao, thì được đạo sĩ ATư-Đà giải thích rằng ông vui mừng vì biết rằng sau này Thái tử sẽ thành đạt Phật và ông khóc vì biết rằng không lâu nữa ông sẽ chết và tái sinh vào cảnh giới Vô Sắc (là cảnh giới mà người đắc thiền sẽ tái sinh vào). Do đó ông sẽ không được hưởng phước lành thọ giáo với bậc trí tuệ cao siêu, Chánh Đẳng Chánh Giác.
Sau lễ đặt tên Thái tử diễn ra trong 2 ngày, Hoàng hậu Mahãmaya bất ngờ qua đời, trong kinh ghi bà được sinh ra ở cung trời Đao Lợi. Lúc đó, Vương phi Mahã Pajãpati Gotami (em ruột của hoàng hậu) tự nguyện chăm sóc Thái tử cho đến khi Ngài trưởng thành.
Một sự việc kỳ lạ đã diễn ra trong tuổi thơ của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta. Sự việc đó là một trải nghiệm tâm linh của Ngài, là chìa khóa mở ra con đường đến Giác Ngộ.
Câu chuyện kể lại là hàng năm vua Tịnh Phạn tổ chức lễ Hạ Điền. Đó là một nghi lễ cầu nguyện thần linh ban cho mưa đều gió hoà, trước khi mọi người bắt tay vào công việc chung.
Tại Ấn Độ, người dân tin rằng có đủ các loại thần: như thần mưa, thần gió, thần lửa, thần đất và nhiều thần khác. Họ tin rằng mọi vấn đề trong cuộc sống con người đều được thần linh quản lý. Con người phải kính phục và chấp nhận sự ban phát hoặc trừng phạt từ các thần linh.
Buổi sáng, vị Vua điểm tô đẹp ra nơi tổ chức lễ. Các người đẹp cung phi đỡ thái tử Sĩ-Đạt-Ta ngồi lên kiệu, lính hầu đặt kiệu dưới bóng mát của một cây trâm to, nơi diễn ra lễ hội không xa. Mọi người đều vui mừng ngắm nhìn cảnh vua chủ lễ, các cung phi có trách nhiệm chăm sóc thái tử cũng lén tiến lại gần để xem.
Thái tử lúc đó vẫn còn nhỏ khoảng 9, 10 tuổi, nhưng lại không thích cảnh tưng bừng nhộn nhịp của buổi lễ. Thái tử rời xa kiệu xuống đất, thay vì nhảy múa vui chơi, Ngài lại chọn bóng mát dưới gốc cây trâm, ngồi bằng 2 chân theo phong cách kiết già, tĩnh mặc và lặng lẽ, mắt mờ nhòe, tập trung vào hơi thở, tinh thần và tình cờ hiểu được Sơ Thiền.
Trong khi mọi người đang bận rộn và vui vẻ trong cuộc lễ, các cung phi bỗng nhớ đến Thái tử và nhanh chóng quay về với công việc của họ. Họ thấy Thái tử đang ngồi yên lặng thiền định. Mặc dù thấy lạ nhưng không dám làm phiền, họ nhanh chóng đi báo cáo cho vua Tịnh Phạn.
Vua Tịnh Phạn vội vã đến đích, thấy Thái tử Sĩ-Đạt-Ta vẫn ở trong tư thế quyết định. Vua đến trước mặt Thái tử, gập tay chào con, nhẹ nhàng nói: “Ôi con yêu quý, đây là lần thứ hai, cha đến thăm con.”
Cuộc sống của người thái tử sĩ Đạt Ta bị rối ren.
Vua Tịnh Phạn thấy Thái tử còn nhỏ mà không ưa thích cuộc sống ồn ào vui chơi như những trẻ con hoàng thân quốc thích khác, nên Ngài rất lo lắng, đặc biệt là mỗi khi nhớ đến những lời tiên tri của các vị đạo sĩ rằng sau này Thái tử sẽ trở thành một nhà sư tìm kiếm đạo và đạt được sự giác ngộ của Phật.
Trong lòng vua Tịnh Phạn không muốn con mình nhập môn tu, Ngài chỉ muốn đào tạo cho Thái tử trở thành người tài năng vượt trội về mọi lĩnh vực, để sau này truyền ngôi vàng cho Thái tử cai trị cho nhiều gia tộc.
Để đạt được mục tiêu của mình, nhà vua bắt đầu lập kế hoạch che giấu sự thật không cho Thái tử biết, hiểu… Cuộc sống trên thế gian thường có nhiều khó khăn và rắc rối.
Vây quanh thái tử là cuộc sống xa hoa, hoành tráng, đàn ca hát xướng, tràn ngập niềm vui. Khi tròn 16 tuổi, theo phong tục của thời đại, Thái tử kết hôn với công chúa Da-Du-Đà-La (Yasodharã), một người em cùng tuổi. Trong 13 năm chung sống với Công chúa, Thái tử chỉ biết đến cuộc sống sung sướng, không hề biết đến khó khăn của con người bên ngoài cung điện. Họ sinh được một đứa con trai, khiến cho vua Tịnh Phạn vô cùng vui mừng. Vua đặt tên cho cháu là La-Hầu-La (Rãhula).
XUẤT GIA
Trải qua 29 năm sinh sống trong cung vàng điện ngọc, được lòng của tất cả mọi người trong hoàng cung, đặc biệt là vua cha và người kế nhiệm cùng công chúa xinh đẹp DaDu-Đà-La luôn quan tâm chăm sóc, tạo điều kiện thuận lợi, khiến cho Thái tử luôn cảm thấy hạnh phúc và vui vẻ. Ngài một mình được trải nghiệm những điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống này. Trong kinh Tăng Nhứt A-Hàm (Anguttara Nikãya, phần 1, trang 145) có ghi lại lời Ngài kể cho đệ tử nghe như sau:.
“Cuộc sống của tôi thật tế nhị, cực kỳ tinh vi. Trong cung điện, nơi tôi sống, vua đã đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh cùng nhau khoe sắc ở đây, sen đỏ vươn mình phô diễn màu sắc bên kia, và trong đầm bên cạnh, sen trắng cạnh tranh với nhau để trở nên đẹp mắt dưới ánh nắng buổi sáng. Trầm hương mà tôi sử dụng đều là loại cao cấp nhất từ xứ Kasi mang về. Khăn và áo của tôi cũng được may toàn bằng lụa hàng đầu từ xứ Kasi mang tới.”
”Ngày cũng như đêm, mỗi khi ta bước chân ra khỏi cung điện là có tàng lọng che sương đỡ nắng.
“Vị vua cũng xây dựng riêng cho chúng tôi ba tòa cung điện. Một để chúng tôi ở trong mùa lạnh, một trong mùa nóng và một trong mùa mưa. Trong suốt bốn tháng mưa chúng tôi lưu trú tại một biệt thự có đầy đủ tiện nghi, giữa những phòng của các phi tần. Ngay cả những người hầu cận của vị vua cũng được sống sung sướng chứ không phải như ở các nhà khác, gia đình chỉ được ăn cơm kém chất lượng và thức ăn cũ.”
Suốt thời gian qua, trước mặt Thái tử chỉ có cảnh cung vàng điện ngọc, cung phi xinh đẹp hát ca suốt năm tháng, là vợ đẹp, con nhỏ, là kho báu đang chờ đợi.
Nhưng đến một ngày nọ, Thái tử đưa ra ý kiến xin vua đi thăm dân để biết tình hình. Vua Tịnh Phạn nghĩ rằng đã đến lúc để Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta ra khỏi thành để khám phá đất nước của mình, vẻ đẹp và vĩ đại như thế nào.
Vua Tịnh Phạn ngay lập tức ra mệnh cho người dân phải nhanh chóng treo đèn trang trí hoa, trưng bày một cảnh tượng hòa bình thịnh vượng, mọi người phải tỏ ra vui vẻ hạnh phúc, đặc biệt là trên những con đường mà Thái tử sẽ đi qua.
Dù vua Tịnh Phạn ra lệnh che giấu cuộc sống của dân chúng cẩn thận như thế nào đi nữa, vẫn không thể qua mắt Thái tử. Sau bốn chuyến du ngoạn ngoài thành, Thái tử đã quan sát và nhận thấy cuộc sống của con người không hoàn toàn hạnh phúc, mà cuộc sống con người bị quay cuồng trong một vòng tròn khốn khổ như hình ảnh một cụ già yếu ớt, mắt mờ, lưng còng, tóc bạc, da nhăn, bước đi rung rẩy phải nhờ một cây gậy chống đỡ. Một người bệnh đau đớn kêu rên ngoài đường trông thật thảm thương. Một thi thể chết sình thúi đưa lên giàn hoả thiêu trước sự khóc lóc sầu não của người thân còn sống. Bên cạnh đó những người xung quanh chỉ lo chạy đua, tranh giành, chụp giựt, bon chen hằng ngày, không hề có giây phút suy tư tìm cách thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn sanh, già, bệnh, chết đó! Chừng như họ chấp nhận hoàn cảnh khắc nghiệt ập lên cuộc đời ngắn ngủi của họ và tiếp tục trôi dạt trong biển khổ định mệnh. Riêng Thái tử thì không chấp nhận, Ngài nghĩ là mình phải làm bất cứ điều gì để vượt khỏi sự sinh diệt. Rồi Ngài suy ngẫm tìm lối thoát, nhưng không có cách nào hết.
Cũng may, ngoài ba tình huống già, bệnh, chết… Thì trong chuyến du ngoạn lần thứ tư, Thái tử gặp được một vị nhà tu Bà La Môn nghiêm trang đáng kính. Hình ảnh tự tin từ tốn của vị tu sĩ này đã mở cho Thái tử một con đường mà Ngài hy vọng sẽ đạt được sự giải thoát và hạnh phúc.
Trong kinh Trung A-Hàm (Majjhima Nikãya, Phần 1 – Ariyapariyesana Sutta số 26, trang 163) đã ghi lại suy nghĩ của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta như sau:
“Bản thân phải trải qua việc sinh, già, bịnh, chết, phiền não và ô nhiễm. Tại sao vẫn mải mê theo đuổi những điều mà bản chất vẫn còn như vậy. Vì đã trải qua việc sinh, già, bịnh, tử, phiền não và ô nhiễm, chúng ta đã nhận thức sự không thuận lợi của những điều đó. Hoặc chúng ta có thể tìm kiếm điều chưa hoàn thiện, điều tối thượng và tuyệt đối của Niết Bàn”.
Nói về cuộc sống tại gia, cũng trong kinh Trung A-Hàm, Phần 1, Mahãsaccaka Sutta số 36, kể lại rằng:.
“Cuộc sống tại gia đình rất khó khăn, là nơi trú ẩn của những vấn đề và những khó khăn, nhưng cuộc sống của những người tu sĩ thực sự là một cảnh trời rộng lớn và tuyệt vời! Những người đã quen với cuộc sống gia đình chắc chắn sẽ khó mà chịu đựng được Cuộc Sống Đạo Hạnh Linh Thiêng với tất cả sự hoàn hảo và trong sạch của nó.”
Nhận định rõ ràng những điều thú vị vật chất mà phần đông tranh giành nhau đều không thể mang lại lợi ích bền vững, chỉ có sự xuất gia, từ bỏ tất cả lợi ích vật chất của thế gian này mới thật sự có giá trị, nên Thái tử Sĩ-Đạt-Ta quyết định rời bỏ cung điện với ngai vàng ngôi vua đứng đầu thiên hạ, từ giã người vợ cao sang quyền quý xinh đẹp và đứa con kháu khỉnh dễ thương vừa mới chào đời để đi tìm Chân lý Tịch Tịnh trường cửu. Hy sinh tình cảm riêng tư để đi không phải Thái tử ích kỷ chỉ nghĩ cho bản thân mình, mà Ngài đi để tìm pháp tu để tự cứu mình và cứu hàng hàng lớp lớp chúng sanh đang chìm trong biển khổ, trong đó có phụ hoàng, mẫu hậu, vợ con của Ngài.
Từ một Thái tử giàu có vinh hiển tột bậc. Ngài trở thành một tu sĩ nghèo khó, không có tiền bạc, không có ngôi nhà, sống nhờ lòng từ thiện của những người nhân hậu. Ngài không có một nơi cư ngụ cố định. Hôm nay, ngủ dưới bóng mát của cây cao, ngày mai tạm trú trong một hang động hoang vắng… Bất cứ nơi nào cũng được, miễn là có thể tránh mưa và che nắng cho Ngài trong những buổi trưa hè nóng bức, hay trong những đêm khuya gió sương lạnh lẽo. Chân không giày dép, đầu không mũ nón, Ngài đi dưới ánh nắng chói chang và trong gió sương lạnh như thế ngày qua ngày. Tất cả quần áo chỉ là những mảnh vải rách rưới ghép lại vừa đủ để che thân. Tất cả của cải chỉ là một bát để đựng thức ăn. Thực phẩm và quần áo chỉ đủ để sống. Ngài tận dụng thời gian và năng lực để tìm kiếm và khám phá sự thật.
Tìm kiếm sự thật
Từ lúc Thái tử bỏ nhà, tự cắt tóc xuất gia tầm đạo đã nhiều lần thất bại suýt mất mạng.
Ban đầu, Ngài tìm kiếm kiến thức về đạo từ 2 vị thầy Yoga nổi tiếng thời đó là đạo sư Alãrã Kãlama và Uddaka Rãmaputta.
Học cùng với đạo sư Alãrã Kãlama, không lâu sau đó ngài đạt được trạng thái “Vô Sở Hữu Xứ” có nghĩa là “Chỗ không có gì”. Đây là trạng thái tâm thức mà các thiền gia cảm nhận “không có gì” xung quanh trong quá trình thiền và sau khi thiền. Trong quá trình này, tâm không bị dao động, không bị xao lạc trước các đối tượng (vì không có đối tượng), nhưng vẫn tồn tại ý thức và tự ngã nên ngã và pháp vẫn hiện diện. Kết quả là không đạt được mục tiêu thoát khỏi sự sanh tử, nên ngài rời bỏ vị thầy để tìm kiếm pháp khác, mặc dù vị thầy đã yêu cầu ngài ở lại để hướng dẫn đồng hành.
Ông rời đi tìm hiểu học pháp với giáo sư thứ hai là đạo sĩ Uddaka Rãmaputta chỉ trong 3 tuần ngắn, Ông cũng được giáo sư này xác nhận đã đạt được trạng thái cao nhất của hệ thống thiền Yoga là “Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ”. Đây là trạng thái “không tri giác, mà cũng không không tri giác”, tức là “hoàn toàn không nhận thức điều gì xung quanh môi trường”. Trong khi niệm biết rõ ràng không xuất hiện, thiền sư có thể bị lạc vào ảo tưởng. Ông nhận ra rằng loại định này không dẫn đến thoát khỏi sự tham lam, cũng không đạt được sự diệt, an tịnh, thượng trí và giác ngộ. Vì vậy, mặc dù được giáo sư thứ hai này xác nhận và đề nghị truyền lại tất cả kiến thức cho ông để ông cai quản và hướng dẫn họ tu tập, nhưng ông đã lịch sự từ chối.
Một lần nữa, Ngài từ giã vị thầy thứ hai để ra đi.
Lang thang qua xứ Ma-Kiệt-Đà, Ngài gặp đạo sĩ Kiều Trần Như và bốn anh em. Cùng với họ, Ngài bắt đầu tu theo đường khổ hạnh. Thời đó các vị tu sĩ cho rằng phải tự gắng gượng thực hiện khổ hạnh một cách quyết liệt để cảm nhận đau đớn trên cơ thể, chỉ khi đó mới đạt được kết quả tu đạo. Các tu sĩ thời đó tin rằng đây là con đường duy nhất để đạt được Niết Bàn, không còn con đường nào khác. Trong vòng 6 năm, đạo sĩ Cồ Đàm trở nên nổi tiếng khắp nơi vì việc tu hành khổ hạnh. Có lúc Ngài tu theo hình dạng của con chó, con bò, có lúc Ngài ngủ trên cỏ gai nhọn, ngủ một giờ, không tắm, không cạo râu, không ăn uống nhiều, chỉ ăn một hạt gạo mỗi ngày. Có khi vào giữa đêm lạnh lẽo, Ngài lại trầm mình xuống dòng sông, nước lạnh thấu xương, hoặc nằm chịu đựng cho tuyết rơi phủ lên toàn bộ cơ thể. Ngài tự sống cuộc sống cực kỳ khắc nghiệt, cho đến một ngày thân hình tráng kiện của Bồ Tát chỉ còn da bọc xương, Ngài được tôn xưng là đệ nhất khổ hạnh, Thánh nhân.
ĐƯỜNG TRUNG LẬP
Tu khắc khó khăn như vậy mà cũng không tìm ra bất kỳ dấu hiệu nào. Đáng tiếc, càng cố gắng mạnh mẽ như vậy thì Ngài càng xa rời mục tiêu tìm kiếm Niết Bàn. Thực ra, lúc đó Ngài cũng không biết trạng thái của Niết Bàn như thế nào, Ngài chỉ nghĩ rằng đó là trạng thái không gây phiền toái nếu đã loại bỏ hoàn toàn mọi khao khát thể xác.
Sau 6 năm khổ sở với sức khỏe, dù cơ thể của Ngài ngày càng yếu đuối, hai mắt như hai cái hố sâu, da nhăn nheo, tóc rụng đi từng đường, Ngài trở nên gầy ốm đến mức da bọc xương, đi không vững, nhưng tâm hồn của Ngài vẫn không bị lay động, cho đến một ngày kia Ngài ngất xỉu ở rìa rừng, may mắn có cô bé chăn cừu cứu sống bằng chén bột sữa.
Khi tỉnh dậy, Ngài tỉnh ngộ, nhận ra sự sai lầm của pháp tu khổ hạnh. Ngài nhận ra thân này là quý, vì thân yếu đuối, mệt mỏi thì tinh thần cũng yếu đuối mệt mỏi không thể tỏa sáng, Ngài liền quyết định bỏ lối tu khổ hạnh cực đoan này, cũng như trước đây Ngài đã từ bỏ lối sống cực kỳ thoải mái sung sướng tại hoàng cung, vì Ngài cho rằng cuộc sống thoải mái làm trì hoãn tiến bộ đạo đức.
Hiện tại Ngài đã lựa chọn con đường tự do, tức con đường trung lập, không thuận lợi cũng không khó khăn, Ngài nhận ra rằng mình phải trân trọng cơ thể này để sử dụng nó trong việc tu hành.
Ông nhớ lại buổi lễ Hạ Điền ngày xưa, khi còn trẻ, trong khi hoàng đế và mọi người tập trung tổ chức lễ hội với các trò chơi vui nhộn, ông đã ngồi dưới bóng mát của cây trâm, tập thiền và đạt được sự giác ngộ. Càng suy nghĩ, ông càng nhận ra rằng đây là con đường tu tập dẫn đến sự giác ngộ.
Ngài suy nghĩ về thời gian khó khăn trong những năm gần đây, dù không đạt được mục tiêu cuối cùng, nhưng nhờ phương pháp này mà Ngài đã vượt qua được chính mình, vượt qua được lòng tham dục: tài, sắc, danh, thực, thuỳ. Ngài cũng đã nhận được sự tán thành từ các vị thần trên trời nói về Ngài.
Ngài nhận ra rằng với cơ thể mệt mỏi khiến tâm không thể hoàn toàn thông suốt. Bây giờ điều ngài cần là một sức khỏe thích nghi rất cần thiết để đạt tiến bộ tinh thần, nên chắc chắn không đói nữa mà nhận bánh Kheer của cô Sujatà cúng dường. Sau khi ăn uống và tắm rửa sạch sẽ, ngài đến gặp lại các bạn đồng tu là năm anh em Kiều Trần Như để kể cho các vị ấy biết ý định dừng pháp tu khổ hạnh vì pháp này không giúp ích cho mục tiêu giải thoát của ngài. Năm vị tu sĩ này thấy ngài đột nhiên thay đổi phương pháp tu thì cảm thấy thất vọng nói rằng: ”Phật tử Cồ Đàm đã trở lại ưa thích xa hoa, đã ngừng cố gắng và đã quay về với cuộc sống lợi dưỡng” rồi họ rời bỏ ngài, đi về phía Vườn Lộc Giả (Vườn Nai / Sarnath).
THÀNH ĐẠO
Năm bạn đồng tu đã rời bỏ Ngài ra đi. Còn lại một mình, một cảnh cô độc, Ngài đi dọc theo bờ sông Ni-Liên-Thiền hướng về khu rừng cây rậm rạp khác cách xa làng mạc, ngày nay là Bồ Đề Đạo Tràng. Tại nơi này vắng vẻ, không có ai đi qua, Ngài chọn một gốc cây Pipphala to lớn, sau này người ta gọi cây đó là cây Bồ Đề. Ngài trải cỏ Kusha làm toạ cụ, quyết chí tham thiền và thề nếu không chứng đạo dù thịt nát xương tan Ngài cũng sẽ không rời khỏi gốc cây này. Nhớ lại pháp thở khi còn nhỏ, bây giờ thử lại Ngài đạt được kinh nghiệm khi xưa, nếu không nói tâm mỗi lúc mỗi yên lặng hơn nhiều, vì thế Ngài quyết định chọn pháp này để tu cho đến khi giải thoát. Ngài bắt đầu tập trung vào hơi thở, rồi thả hơi thở, quay vào trong tâm, yên lặng thiền định để tìm ra những chân lý sâu sắc thần bí để giải quyết bài toán phức tạp của sự sinh, già, bệnh và chết.
Sau 49 ngày đêm, đạo sĩ Cồ Đàm đã tuần tự học Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. Khi tâm Ngài hoàn toàn tỉnh táo, trong sáng, không bị nhiễu, không lo lắng, dễ dùng, bình tĩnh… Hướng về hiểu biết liên quan đến nhớ lại quá khứ của chính mình. Tất cả những gì đã xảy ra từ nhiều kiếp trước đây hiện ra trong ý thức của Ngài như một bộ phim trước mắt. Sinh ra, chết đi, tái sinh…. Qua từng đời… Làm người này, làm người khác… Ngài đều biết rõ. Đây là hiểu biết đầu tiên mà Ngài nhận thức được vào lúc nửa đêm đầu ngày, gọi là Túc Mạng Minh.
Phá vỡ được tầng vô minh, tự mình nhận ra được vô số kiếp của mình. Bây giờ ngài mới hướng tâm về tri thức hiện tượng Sanh, Diệt của chúng sinh. Với sự sáng suốt và phi thường, Ngài nhìn thấy sự sống và sự chết của chúng sinh. Ngài biết người kém cỏi, người tài giỏi, người xinh đẹp, người xấu xí, người may mắn và người bất hạnh…V.V… Tất cả đều trải qua diệt và sanh, sanh và diệt, tùy thuộc vào hành vi và hạnh nghiệp tốt xấu của mỗi người mà sống lại trong 6 cõi: trời, người, Atula, súc sinh, ngạ quỷ hay địa ngục… Như vậy với Thiên Mắt Minh, ngài cảm nhận sự phân tán và sự kết hợp trở lại của chúng sinh. Ngài chứng ngộ Thiên Mắt Minh trong giữa đêm thành đạo.
Tiếp theo, ngài hướng tâm về việc hiểu biết và chấm dứt các pháp trầm luân. Ngài biết rõ rằng “đây là khổ, đây là nguyên nhân gây ra khổ, đây là cách chấm dứt khổ, đây là con đường dẫn đến chấm dứt khổ”. Ngài cũng hiểu rõ rằng “đây là những ô nhiễm (lậu hoặc), đây là nguyên nhân gây ra các lậu hoặc, đây là cách loại bỏ những lậu hoặc, đây là con đường loại bỏ các lậu hoặc”. Ngài tiếp tục nhận thức rằng “đây là phiền não, đây là nguyên nhân gây ra phiền não, đây là cách chấm dứt phiền não, đây là con đường dẫn đến chấm dứt phiền não”… Và cứ tiếp tục như vậy. Nhờ nhận thức đó, tâm ngài đã thoát khỏi dục lậu (ô nhiễm của dục vọng), thoát khỏi hữu lậu (ô nhiễm của tình yêu đời sống) và thoát khỏi vô minh lậu (ô nhiễm của sự ngu dốt). Ngài đã chứng minh sự Minh Lậu khi trời sáng. Lúc đó, ngài nhận thức rằng mình đã được giải thoát, và hiểu rằng “tái sinh đã kết thúc, cuộc sống Phạm Hạnh đã hoàn thiện, công việc cần làm đã hoàn thành, sau cuộc sống hiện tại không còn cuộc sống nào khác nữa” (Kinh Trung Bộ 1, Đại Kinh Saccaka, số 37, trang 541-543).
Màn giảm bớt sự mờ mịt đã hoàn toàn giải tỏa và sự thông minh phát triển. Đêm đã tan và ánh sáng tràn ngập. Đạo sĩ Cồ Đàm lúc đó 35 tuổi. Suốt 6 năm dài đầy gian khổ, không có sự giúp đỡ từ bên ngoài, cũng không được sự chỉ dẫn từ bất kỳ sức mạnh siêu nhiên nào, cô độc một mình, tự cố gắng chiến đấu và tự mình thắp sáng trong bóng tối. Kết quả đã tiêu diệt mọi ô nhiễm (kháng cự) và chấm dứt mọi tiến trình tham lam và chứng kiến thực tướng của vạn pháp, trở thành một vị Phật lịch sử.
Đức Thích Ca Mâu Ni là một vị Phật có sự hiện diện trong lịch sử. Bởi sau hàng ngàn năm, vẫn còn tư liệu lịch sử để ghi lại.
Cha: Đức Vua Tịnh Phạn nước Ca-Tỳ-La-Vệ (Bắc Ấn Độ).
Mẹ: Hoàng hậu Mahãmaya (băng hà sau khi sanh Thái tử 7 ngày).
Mẹ kế: Vương phi Mahã Pajãpati Gotami (là dì ruột nuôi Thái tử cho đến khi khôn lớn).
Ngày sinh: Ngày rằm tháng 4 Âm lịch tại vườn Lâm Tỳ Ni, đất nước Nepal Kết hôn với công chúa Da-Du-Đa-La: Hồi 16 tuổi.
Đến 29 tuổi có con đầu lòng là: La-Hầu-La.
Bỏ hoàng cung xuất gia: Ngày 8 tháng 2, vào năm 29 tuổi.
Thành đạo: Ngày 8 tháng 12. Năm 35 tuổi tại Buddha Gaya, Ấn Độ.
Hoằng pháp: 45 năm.
Nhập Niết Bàn : Rằm tháng 2, thọ 80 tuổi tại Kusinãrã, Ấn Độ.
Hiện tại, vẫn tồn tại các di tích (Tứ Động Tâm) ghi lại những nơi Đức Phật đã đi qua do các nhà nghiên cứu người Anh khám phá. Chẳng hạn như Lâm Tỳ Ni là nơi Đức Phật được sinh ra. Bồ Đề Đạo Tràng (Buddha Gaya cách nhà ga xe lửa Gaya khoảng 10 cây số) là nơi Đức Phật trở thành Bụt. Vườn Lộc Giả, hiện tại là Sarnath, Ấn Độ, là nơi Đức Phật truyền bá bài kinh Tứ Diệu Đế và Vô Ngã Tướng độ cho 5 anh em Kiều Trần Như đạt được thành tựu A-La-Hán. Nơi Đức Phật qua đời là Kusinãrã (gọi là Kasi ngày nay, cách nhà ga Gorakhpur Ấn Độ khoảng 40 cây số).
KẾT LUẬN.
Đức Phật Thích Ca được tôn vinh là Đấng sáng lập của tín đồ Phật giáo ở nơi này. Cuộc đời của Ngài cũng có một truyền thuyết rất đặc biệt. Ngài đã để lại một kho báu tri thức quý giá. Phật giáo có khoảng trên 800 triệu tín đồ trên toàn cầu (hơn 7 tỷ người) và cũng có hệ thống nghi lễ hoành tráng.
Như vậy, một mặt đạo Phật cũng có thể được xem như là một tôn giáo, và trong tôn giáo đó, người Giáo chủ có nhiều câu chuyện về cuộc đời, vì vậy chúng ta có Đức Phật Huyền Thoại. Tuy nhiên, trong kinh điển Phật giáo, ta thấy rằng Ngài không tự xưng là Giáo Chủ mà chỉ là người Thầy truyền dạy phương pháp tu tập và kinh nghiệm mà Ngài đã trải qua cho những người muốn giải thoát khỏi khổ đau, cho nên người ta tôn xưng Ngài là vị Phật lịch sử duy nhất trên thế gian này. Các danh hiệu khác là do tín đồ cúng dường tôn kính.
Nhân dịp lễ Phật Đản chúng ta suy ngẫm về những người đã khai sáng ra đạo Phật thông qua hai hình ảnh theo hai truyền thống: Lịch Sử và Huyền Thoại. Cả hai truyền thống đều mang lại lợi ích cho tất cả mọi người.
Chúng ta biết rằng Đức Phật khi còn sống không cho rằng mình là vị thần, là vị thượng đế, vì vậy Ngài không ban phát phép lành hay cứu rỗi cho bất kỳ ai. Ngài chỉ để lại một học thuyết mà qua việc tự tu, tự chứng của mình, dành cho những ai tin và theo học. Học thuyết đó có giá trị chủ yếu ở các khái niệm thiện tâm, nhân ái và bình đẳng. Điều đó ám chỉ đến cộng đồng và xã hội. Về mặt tâm lý, Ngài để lại một kinh nghiệm tu tập để con người thoát khỏi sự kiềm chế của sự đau khổ và sống trong trạng thái hạnh phúc và an lạc, được gọi là Niết Bàn.
Đối với giáo lý nhà Phật thì Niết Bàn chính là trạng thái yên tĩnh, trong sáng, không liên quan đến mọi thứ trên thế gian này, nhưng vẫn luôn thông suốt vì trí tuệ thông minh đã được mở rộng và phát triển. Người nào có trải nghiệm với trạng thái Niết Bàn là người đó được thoát khỏi khổ đau, giải thoát. Vì vậy, Niết Bàn không nằm ở nơi xa xôi mà nó tồn tại ngay trong tâm của người tu hành ngay bây giờ và ở đây!
Liên quan đến: Lý do tại sao Phật giáo phát triển mạnh ở Việt Nam
Viết về cuộc sống của Đức Phật không chỉ vài trang giấy là đủ nên bài viết này tạm thời được kết thúc ở đây. Với lòng tôn kính của những người theo đạo Phật, chúng tôi chỉ hy vọng có thể chia sẻ một chút hiểu biết cơ bản của mình để cùng mọi người tìm hiểu về tiểu sử ngắn gọn của Đức Bổn Sư Thích Ca trong hai khía cạnh Lịch sử và Tôn giáo nhân dịp Phật Đản, theo lịch Phật năm 2562.
Kính chúc tất cả chư liệt vị thân tâm thường an lạc trong ánh hào quang của chư Phật.
Thích Nữ Hằng NhưThư Viện Hoa Sen.
Chú thích của BBT TVHS.
Đức Phật đã nhiều lần nói về Trung Đạo. Nếu cho rằng Trung Đạo là thoát xa cả hai cực đời sống vật chất xa hoa và ép xác khổ hạnh thì đó chỉ là thuyết tương đối. Trung Đạo cũng không có nghĩa là trung dung giữa hai thái cực tu hành. Trung Đạo, hiểu đúng lời Phật dạy là xa lìa tất cả các biên kiến như Ngài dạy trong Kinh Chánh Kiến hay còn gọi là Kinh Ca Chiên Diên. Trung có nghĩa là Chính. Chính có nghĩa là đúng. Chính kiến là cách nhìn đúng, là tương phản với từ “biên kiến”, vượt qua sự phân biệt hữu và phi hữu, có không. Mời xem kinh tại đây:.Đức Phật đã nhiều lần nói về Trung Đạo. Nếu cho rằng Trung Đạo là thoát xa cả hai cực cuộc sống vật chất xa hoa và ép xác khổ hạnh thì đó chỉ là thuyết tương đối. Trung Đạo cũng không có nghĩa là trung dung giữa hai thái cực tu hành. Trung Đạo, hiểu đúng lời Phật dạy là xa lìa tất cả các biên kiến như Ngài dạy trong Kinh Chánh Kiến hay còn gọi là Kinh Ca Chiên Diên. Trung có nghĩa là Chính. Chính có nghĩa là đúng. Chính kiến là cách nhìn đúng, là tương phản với từ “biên kiến”, vượt qua sự phân biệt hữu và phi hữu, có không.
Trả lời