Đền chúa Nguyệt Hồ – Điểm tham quan văn hóa tâm linh ở Bắc Giang

Đền Nguyệt Hồ là một trong những di tích cổ liên quan đến truyền thống lịch sử văn hiến của quê hương Bắc Giang. Nằm tại vùng đất có nhiều di tích thuộc tầng lớp thượng lưu dòng sông Thương, ven theo dòng sông này có nhiều điểm di tích thờ Mẫu, tuy nhiên, đền Nguyệt Hồ thuộc xã Hương Vĩ, huyện Yên Thế lại được quan tâm và chú ý nhiều hơn.

Dựa theo truyền thuyết và tài liệu cổ mà Lời Phật tìm hiểu, Đệ Nhị Nguyệt Hồ được xem là bà Chúa Bói trong thời Hùng Vương. Theo truyền thuyết, chúa bà Nguyệt Hồ là một cô gái nghèo sống ở đất Bắc Giang và luôn phải đối mặt với khó khăn. Tuy nhiên, bà có tấm lòng nhân hậu và rất tốt bụng, vì vậy Lão Tổ Quỷ Cốc Tử Tiên Sinh đã truyền dạy cho bà những đạo pháp của mình và đặt cho bà cái tên Nguyệt Hồ (hay Huyết Hồ). Sau khi học được phép của Tiên Sinh, bà dành cả cuộc đời để giúp đỡ người dân. Chúa Nguyệt Hồ nhanh chóng trở nên nổi tiếng và danh tiếng của bà lan rộng đến kinh đô. Đức vua đã mời chúa về kinh đô và mỗi khi ra trận, vua đều yêu cầu chúa bà giúp đỡ bằng cách phán đoán tương lai, tư vấn chiến lược và sắp xếp binh lính.

Trong Tam Vị Chúa Mường, bà chúa Nguyệt Hồ là một bà chúa nổi tiếng về bói, và rất giỏi ngự đồng. Khi ngự đồng, bà chúa mặc áo xanh và múa mồi. Đôi khi bà còn sử dụng lá trầu quả cau để đoán bói và phán đoán về cuộc sống của con người.

Dựa theo truyền thuyết và thần thoại ở vùng Bo (Yên Thế), câu chuyện về chúa Nguyệt Hồ được ghi lại như sau: Vào cuối thời kỳ của vua Hùng Duệ, quân Thục xâm lược giang sơn của họ Hùng. Vì vậy, vua đã lệnh tìm kiếm những người tài giỏi để giúp ông đánh bại kẻ thù. Lúc đó ở vùng Bo (Yên Thế), có hai ông Cao và Quý đã đến ứng tuyển và được vua chọn để giúp đỡ. Họ kéo quân về vùng Bo (Yên Thế) và luyện tập binh mã để chờ cơ hội tấn công. Khi quân Thục tấn công, hai bên đã giao chiến ác liệt. Mặc dù quân ta yếu hơn, nhưng hai ông Cao và Quý đã chỉ huy quân sĩ rút lui và lựa chọn địa hình để quay lại đánh giặc. Thuyền chiến không thể sử dụng được vì các bà con gái địa phương đã dời thuyền trở lại vùng Bo. Hai ông chỉ huy quân sĩ đã đánh bại kẻ thù và trở về để được khao thưởng. Sau đó, họ đã trở về triều đình để báo cáo chiến thắng với vua.

Trước khi thủy triều lên, hai ông ngựa phi thẳng tới khu Rừng Từ để ngắm nhìn vùng Bo toàn cảnh trước khi bất ngờ chết tại đó. Phu nhân và con gái của hai ông cũng tự tử vào ngày 15/2 vì buồn nhớ. Sau khi đánh bại quân Thục, nhà vua phong cho các danh tướng là Thượng Đẳng Phúc Thần và yêu cầu xây dựng đền miếu để thờ cúng mãi mãi tại các địa phương mà các danh tướng đã chiến đấu. Triều đại của vua Lê Đại Hành đã phong cho các vị Thần ở vùng Bo với tên gọi: “Cao Sơn Quý Minh đại đức hùng lược trác vĩ Đại Vương Thượng đẳng Thần”.

Trong triều Nguyễn, người ta đã xây dựng một miếu thờ ở Huyết Hồ để thờ nữ thần Nguyệt Nga và con gái của vị thần họ Cao. Vào năm thứ ba của triều vua Tự Đức (1850), Nguyệt Nga phu nhân được ban sắc phong và dân xã vùng Bo được phụng thờ cùng. Sau đó, công chúa Nguyệt Nga cũng được ban sắc phong trong triều vua Duy Tân vào năm thứ nhất (1907).

Đền Bà Chúa Nguyệt Hồ đã có lịch sử lâu đời, trước đây trong đền có một cung đặt tượng thờ Nguyệt Nga công chúa và được trang trí theo đạo thờ Mẫu. Sau nhiều lần tu sửa và tôn tạo bởi người dân địa phương và các nhà hảo tâm, ngôi đền trở nên khang trang và tố hảo hơn.

Khu di tích hiện nay bao gồm nhiều công trình như Cổng đền, khu sân đền, hồ Nguyệt và khu đền chính với tòa đại bái và hậu cung, kiến trúc theo phong cách cổ truyền thống. Trong hậu cung, có tượng Bà Chúa bản đền, chúa Nguyệt Hồ, Nguyệt Nga công chúa và các tượng thờ theo đạo thờ Mẫu như hàng Thánh Mẫu, hàng Quan, hàng Chầu, ông Hoàng, các Cô, Cậu và Đức Thánh Trần. Hai cung ngoài tòa đại bái cũng có các tượng thờ theo đạo thờ Mẫu. Với lịch sử phong phú, đền Nguyệt Hồ được tín đồ thờ phụng với nhiều tín ngưỡng khác nhau như thờ ”Bà chúa Nguyệt Hồ- Chúa Bói”, thờ ”Tam tòa Thánh Mẫu”, thờ Cô, thờ Cậu, thờ Sơn Trang, thờ các ông Hoàng và đức Thánh Trần Triều….. Và tín ngưỡng thờ Mẫu từ lâu đã trở thành một phần tín ngưỡng của người Việt cổ và ngày càng được phát triển theo thời gian.

Ngày lễ bà Chúa Nguyệt Hồ diễn ra vào ngày 15/2 âm lịch. Trong ngày lễ này, nhân dân vùng Bo sẽ rước kiệu từ đình Bố Hạ đến các đền Hạ, Trung và Thượng. Sau khi tế lễ tại đền Trung, họ sẽ tiếp tục rước kiệu về đền Nguyệt Hồ. Tại đây, lễ tế chúa Nguyệt Hồ được tổ chức với những nghi thức độc đáo như lễ dâng văn. Bài văn cúng dâng chúa Nguyệt Hồ được trình bày bằng hình thức hát văn. Người được chọn để biểu diễn phải có giọng hát tốt, đàn chơi giỏi và gia đình không có tang bụi.

Trong lễ thờ Mẫu tại đền Bà Chúa Nguyệt Hồ cũng có nghi thức hầu bóng diễn ra vào các dịp đầu năm và trong ngày lễ hội. Du khách đến dự lễ Mẫu và hầu bóng chủ yếu là du khách từ các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Quảng Ninh, Hà Nội… Tập trung về đây để cúng dường văn hầu cho Chúa Nguyệt Hồ.

Hội đền Nguyệt Hồ thuộc không gian tín ngưỡng thờ Mẫu và nằm trên tuyến hành lễ đền Nguyệt Hồ – đền Suối Mỡ – đền Bắc Lệ – đền Mỏ Ba – đền Thượng Đồng Đăng, cuối cùng kết thúc tại đền Bà chúa Kho ở Bắc Ninh.

Bạn có thể tham khảo thêm về Chùa Tây Phương là di tích quốc gia đặc biệt của Hà Nội tại đây


by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *