Đạo Tin lành trên thế giới và Việt Nam

Theo Lời Phật tìm hiểu, tại nhiều vùng, đạo Tin lành đã dễ dàng thích nghi với phong tục tập quán địa phương, dẫn đến sự gia tăng đáng kể số lượng tín đồ. Tuy nhiên, việc ảnh hưởng đến đời sống chính trị xã hội, tâm lý và phong tục tập quán đặt ra nhiều vấn đề phức tạp và nhạy cảm.

Dưới đây là bài viết tóm tắt một số thông tin lịch sử về tôn giáo Tin lành tại Việt Nam và những thách thức hiện nay.

Sự hình thành đạo Tin lành và một số đặc điểm nhận biết

Sự hình thành đạo Tin lành

So với các tôn giáo lớn trên thế giới như Phật giáo, Công giáo hay Hồi giáo, Đạo Tin lành ra đời muộn hơn. Nhưng từ khi được thành lập đến nay, Đạo Tin lành đã phát triển rất nhanh chóng và trở thành một tôn giáo quốc tế, có khoảng 550 triệu tín đồ và gần 300 hệ phái tổ chức khác nhau trên nhiều quốc gia.

Vào khoảng đầu thế kỷ XVI tại Châu Âu đã xảy ra sự phân chia trong đạo Ki tô, điều này góp phần dẫn đến việc ra đời của đạo Tin Lành. Thật sự đó là một cuộc cải cách về mặt tôn giáo và chính trị xã hội sâu sắc. Đạo Tin Lành là kết quả của một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về uy tín của Giáo hội Công giáo do sự tham vọng quyền lực trần thế, sự suy giảm đạo đức của các giáo sĩ; là hậu quả của sự mơ hồ và bế tắc của triết học thần học thời Trung Cổ; và là kết quả đầu tiên mà tầng lớp tư sản mới nổi lên trong cuộc đấu tranh chống lại tầng lớp phong kiến, và chỗ dựa tư tưởng của tầng lớp này là đạo Công giáo.

Phong trào cải cách tôn giáo ban đầu được bắt đầu tại Đức. Martin Luther, người khởi xướng và trở thành nhà lãnh đạo nổi tiếng của phong trào này, đã từ bỏ chương trình học luật tại trường Đại học Erfurt để theo đuổi “dâng mình cho Chúa” và trở thành tu sĩ tại dòng Oguxtino. Sau đó, Luther trở thành giáo sư và tiến sĩ thần học tại trường Đại học Wittenberg. Trong chuyến đi tới Rôma, Luther đã hoàn toàn thất vọng vì thấy sự xa hoa và tập quán trần tục của giới giáo sĩ. Qua sự kiện này, ông đã có những suy nghĩ về cải cách tôn giáo và cuối cùng công bố 95 luận đề với nội dung chỉ trích mạnh mẽ việc lợi dụng danh thánh để kiếm lợi và chỉ trích chức vụ giáo hoàng và quyền lực giáo hội Rôma.

Quan điểm của Luther đã được nhiều tầng lớp nhân dân Đức ủng hộ, đặc biệt là các quý tộc công hầu. Vào năm 1532, với sự ảnh hưởng lớn của phong trào này, hoàng đế Đức đã chấp nhận cho đạo Tin lành được tự do hoạt động.

Thụy Sĩ cũng là trung tâm lớn thứ hai của cuộc cải cách tôn giáo liên quan đến tên tuổi của Jean Calvin. Ông là người Pháp, đã từng học thần học và luật học bằng học bổng của giáo hội Công giáo nhưng do ủng hộ phong trào cải cách của Luther nên bị trục xuất khỏi Pháp và sống tại Thuỵ Sĩ. Calvin đã nghiên cứu và xây dựng một giáo thuyết riêng và cải cách về lễ nghi, giáo hội đã trở thành tiêu chuẩn cho phần lớn các phái Tin lành theo đuổi….

Từ trung tâm Đức và Thuỵ Sĩ, phong trào cải cách tôn giáo phát triển nhanh chóng sang Pháp, Scotlen, Ireland, Hà lan, Anh , Nauy, Đan mạch… Đến cuối thế kỷ XVI đã hình thành một tôn giáo mới tách biệt hoàn toàn khỏi đạo Công giáo. Trong quá trình phát triển của mình, đạo Tin lành đã hình thành rất nhiều phái phái khác nhau như Trưởng lão, Menhônai, Moóc Mông, Ngũ tuần, Giám lý, Thanh giáo và Giáo hội cộng đồng, Cơ đốc Phục lâm, Giáo hội thống nhất, Môn đệ đấng Chrits, Hội Liên hiệp Phúc âm truyền giáo….

Đặc điểm nhận biết của đạo Tin lành

Có nhiều tổ chức hệ phái trong Đạo Tin lành, mặc dù có sự khác biệt về giáo thuyết, nghi thức hành đạo và cách tổ chức giáo hội, nhưng nhìn chung đều thống nhất ở những nội dung và nguyên tắc chính. Có thể tổng quát và so sánh với Đạo Công giáo.

Về mặt thần học, Đạo Tin lành thuộc nhánh của Kitô giáo và sử dụng kinh thánh Cựu ước và Tân ước làm nền tảng giáo lý. Khác với Công giáo, Tin lành coi trọng vị trí của kinh thánh và xem đó là cơ sở đức tin và sự hành đạo. Tất cả các tín đồ và giáo sĩ đạo Tin lành đều đọc, sử dụng, nói và làm theo kinh thánh, chứ không xem nó là cuốn sách của riêng giáo sĩ.

Đạo Tin lành cũng tôn kính Thiên Chúa và tin rằng Thiên Chúa có 3 ngôi: Cha, Con, Thánh Thần; tin rằng mọi vật đều được Thiên Chúa tạo dựng. Tuy nhiên, Đạo Tin lành có tín điều riêng về Đức Bà Hoài Thai Chúa GiêSu, cho rằng Chúa GiêSu được sinh ra một cách mầu nhiệm qua lòng bà Maria, nhưng không phải là con của bà Maria dù theo bất kỳ nghĩa nào. Sau khi sinh ra GiêSu, bà Maria còn sinh thêm rất nhiều con cái như Giacôp, Giôdep, Ximôn, Gruđa… Do đó, họ phản đối mọi hành động thờ phụng bà Maria.

Tỷ lệ người theo đạo Tin Lành tại các quốc gia toàn cầu.
Tỉ lệ dân số theo đạo Tin Lành ở các quốc gia trên thế giới

Đạo Tin lành là một tôn giáo đặc biệt tôn trọng lý trí trong đức tin. Vì thế, các luật lệ, lễ nghi và cách thức hành đạo đơn giản, không cầu kỳ rườm rà. Đạo Tin lành không tôn thờ tranh ảnh, hiện tượng hay dị vật và không đi hành hương đến các thánh địa. Trong số 7 phép bí tích của đạo Công giáo, đạo Tin lành chỉ thừa nhận và thực hiện phép rửa tội và phép thánh thể. Tín đồ đạo Tin lành khi xưng tội và cầu nguyện có thể đứng giữa nhà thờ, đám đông để sám hối hoặc nói lên ý nguyện của mình một cách công khai, khác với tín đồ đạo Công giáo xưng tội trong toà kín với linh mục là hình thức chủ yếu nhất. Thánh đường của đạo Tin lành thường có kiến trúc hiện đại và đơn giản, chỉ có một cây thập giá, biểu tượng của Chúa GiêSu bị nạn.

Về nhân sự, tôn giáo Tin lành cũng có những giáo sĩ giống như tôn giáo Công giáo. Giáo sĩ Tin lành được chia thành hai loại: mục sư và giảng sư, và họ không áp dụng quy định độc thân như giáo sĩ Công giáo. Ngoài ra, điều đặc biệt là có nhiều giáo sĩ Tin lành là phụ nữ. Dù giáo sĩ cũng có trách nhiệm chăm sóc tinh thần cho tín đồ, nhưng họ không có quyền thay mặt Chúa ban phúc hay tha tội cho tín đồ.

Về mặt tổ chức, đạo Tin lành không thành lập một tổ chức giáo hội chung cho toàn bộ đạo mà họ tập trung vào việc xây dựng các tổ chức giáo hội độc lập, phù hợp với từng hệ phái và quốc gia. Trong tổ chức giáo hội, các hệ phái Tin lành hỗ trợ cho sự tự quản lý của các giáo hội cơ sở, chi hội và các cấp giáo hội bên trên, phù hợp với tình hình địa phương. Không giống như Công giáo, giáo hội Tin lành không có các vị giáo sĩ cố định, mà tất cả các tín đồ và giáo sĩ đều tham gia thông qua một quá trình bầu cử dân chủ.

Nhìn chung, có thể thấy sự cải cách của Tin lành về cách thức hành đạo cũng như tổ chức giáo hội chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng dân chủ và khuynh hướng tự do cá nhân, giảm bớt sự linh thiêng về luật lệ, lễ nghi và cơ cấu tổ chức của đạo Công giáo. Sinh hoạt tôn giáo không lệ thuộc quá nhiều vào việc lễ bái, nơi thờ tự, chức sắc… Đánh giá mức độ và nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ Tin lành khó có thể dựa vào việc họ có đến nhà thờ để tham dự các sinh hoạt tôn giáo hay không. Đối với tín đồ Tin lành, nếu có đức tin thì ở tại gia đình với quyển kinh thánh, họ có thể hoàn thành bổn phận của một tín đồ.

Với phong cách sống đạo nhẹ nhàng đơn giản, không phức tạp và cách tiếp cận dân chủ trong tổ chức, đạo Tin lành là một tôn giáo độc đáo phù hợp với phong cách sống của tất cả các tầng lớp trong xã hội công nghiệp như giai cấp tư sản, tiểu tư sản và công chức. Hiện nay, những quốc gia tiên tiến trong lĩnh vực công nghiệp như Thụy Điển, Nauy, Đan Mạch, Đức, Anh, Hà Lan, Mỹ đều có nhiều người theo đạo Tin lành.

Bên cạnh đó, có thể thấy rằng Đạo Tin lành được ra đời khi các tôn giáo lớn đã tạo nhiều hình ảnh ở những địa điểm nhất định. Như Phật giáo ở Châu Á, Công giáo ở Châu Âu, Hồi giáo ở Trung cận đông… Để đạt được mục tiêu, Đạo Tin lành cố gắng thu hút Công giáo ở Châu Âu và tìm đến những vùng xa xôi để phát triển đạo. Ở những nơi này, Đạo Tin lành không chỉ khai thác lợi thế là một tôn giáo có lối sống đạo đơn giản, đề cao dân chủ và vai trò cá nhân mà còn nghiên cứu rất kỹ đặc điểm văn hoá tâm lý, lối sống của từng dân tộc ở những vùng này để có phương pháp phù hợp. Đặc biệt, Đạo Tin lành xuất hiện với những điều mới lạ và tiên tiến ở những nơi có phong tục tập quán lạc hậu, lôi kéo người tin theo và phát triển nhanh chóng. Vì thế, đối tượng tín đồ của Đạo Tin lành không chỉ là tầng lớp trí thức và thị dân, mà còn là dân tộc thiểu số.

Dù được xem là một tôn giáo tiên tiến, năng động và linh hoạt, nhưng vì đạo Tin lành coi trọng vai trò của kinh thánh, nên thậm chí có một số phái Tin lành rất cứng nhắc và không chấp nhận những điều trái với kinh thánh, dẫn đến sự phản đối văn hoá tín ngưỡng truyền thống của tín đồ tại những nơi đạo Tin lành được truyền bá.

Đạo Tin lành ở Việt Nam

Đặc điểm lịch sử

Với những đặc tính độc đáo về địa lý, lịch sử, văn hóa và dân số, Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo và hình thức tín ngưỡng. Trước khi đạo Tin lành được giới thiệu, Việt Nam đã có những tôn giáo lớn như Phật giáo, Lão giáo và Công giáo. Đạo Tin lành được giới thiệu vào Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX bởi tổ chức Tin lành Liên hiệp phúc âm và truyền giáo Mỹ (CMA). Tổ chức này đã gửi nhiều mục sư đến Việt Nam để tìm hiểu và khảo sát, bao gồm Mục sư Tiến sĩ A.B Sumpsm (1887), D.Leclacher (1893), C.H Reves (1897), R.A Jaffray (1899), S.Dayan (1901)… Từ năm 1911, CMA đã gửi R.A.Jaffray, Paul.M.Husel và G.LoyHugher đến Đà Nẵng để thành lập Hội thánh đầu tiên. Điều này đánh dấu sự xuất hiện của đạo Tin lành tại Việt Nam. Từ Đà Nẵng, các giáo sĩ truyền giáo đã mở thêm một số cơ sở khác ở các vùng lân cận như Hội An, Tam Kỳ, Đại Lộc… Và cử người dân đi truyền giáo ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ với các hoạt động chính là dịch kinh thánh, thiết lập nhà in và mở các trường đào tạo mục sư truyền giáo.

Tin Lành đã truyền bá vào Việt Nam được hơn 100 năm.
Đạo Tin lành du nhập vào Việt Nam từ hơn 100 năm trước

Tuy nhiên, chính quyền Pháp tại Việt Nam không thích việc truyền bá đạo Tin lành, họ lo lắng về ảnh hưởng của Mỹ thông qua việc phát triển đạo Tin lành. Vì vậy, trong thời kỳ này, đạo Tin lành gặp nhiều khó khăn trong hoạt động của mình. Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất xảy ra, thực dân Pháp cho rằng các giáo sĩ Tin lành làm gián điệp cho Đức, vì vậy họ đã ra lệnh đóng cửa nhà thờ Tin lành và cấm các giáo sĩ Tin lành hoạt động. Ngoài ra, người Pháp còn dựa vào Hiệp định 6/6/1884 chỉ cho phép Thiên chúa giáo được truyền bá vào Việt Nam. Toàn quyền Đông Dương đã đóng cửa nhà thờ và trục xuất giáo sỹ truyền giáo CMA. Phải đến năm 1927, khi phong trào dân chủ Pháp lên cao, các lệnh cấm này mới được huỷ bỏ. Tuy nhiên, trong thời gian đó, đạo Tin lành vẫn tìm mọi cách để phát triển. Đến năm 1918, CMA đã thành lập 5 chi hội ở Bắc Kỳ, 6 chi hội ở Trung Kỳ và 5 chi hội ở Nam Kỳ. Tất cả các chi hội Tin lành lúc đó đều được cấp phép hoạt động của khâm sứ 3 kỳ và đều có tên là “Hội Thánh Tin Lành Đông Pháp” (MEI).

Trong khoảng thời gian từ năm 1924 đến năm 1927, đã diễn ra tổng cộng 4 Đại hội đồng của Đạo Tin lành. Đại hội đồng thứ IV tại Đà Nẵng đã bầu ra Ban Trị sự Tổng liên Hội thánh Tin lành Việt Nam và đặt mục sư Hoàng Trọng Thừa làm Hội trưởng đầu tiên.

Trong thời kỳ chiến tranh Thế giới thứ 2, phát xít Nhật xâm lược vào Đông Dương, tình hình chính trị xã hội phức tạp, Uỷ ban truyền giáo của CMA New York đã ra lệnh triệu hồi tất cả các linh mục rời khỏi Đông Dương. Hội thánh Tin lành ở Việt Nam gặp khó khăn, các sinh hoạt tôn giáo của tín đồ cũng bị đảo lộn. Sau khi chiến tranh kết thúc, các linh mục trở lại Việt Nam và các sinh hoạt của giáo phái Tin lành ở cả ba miền được khôi phục.

Sau một quá trình lan truyền và phát triển, đến năm 1954, giáo phái Tin lanh đã có khoảng 60.000 tín đồ và gần 100 mục sư truyền giáo. Trung tâm chính của Giáo hội Tin lanh tại Việt Nam được đặt tại thành phố Hà Nội.

Sau Hiệp định Giơnevơ (1954), Tin lành ở hai miền Nam – Bắc có sự khác biệt. Tại Miền Bắc, nhiều tín đồ giáo sĩ đã di cư vào Nam do đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch kích động. Những người ở lại Miền Bắc đã thành lập Hội thánh Tin lành Việt Nam (Tổng hội Tin lành miền Bắc) với các hoạt động bình thường và phạm vi ảnh hưởng không lớn, số lượng tín đồ cũng tăng nhẹ. Trong khi đó, ở miền Nam, từ năm 1954 đến 1975, Tổng liên hội thánh Tin lành Việt Nam (Hội thánh Tin lành Việt Nam) được lập ra bởi đế quốc Mỹ và CMA, lợi dụng cuộc chiến tranh xâm lược.

Trong thời kỳ này, Tin lành tại miền Nam đang phát triển mạnh mẽ. Giáo phái này đang tập trung vào việc tăng cường và mở rộng hệ thống tổ chức tôn giáo, kinh tế, văn hóa và xã hội. Họ cũng mở rộng phạm vi truyền đạo ra nhiều địa bàn, đặc biệt là ở Tây Nguyên. Hội thánh Tin lành miền Nam đã tách riêng hai “hạt” vùng dân tộc ít người ra khỏi người Kinh và thành lập “cơ quan truyền giáo người Thượng” dưới sự chỉ đạo của các giáo sĩ Tin lành Mỹ. Họ cũng cho phép các hệ phái Tin lành, các tổ chức xã hội văn hoá, nhân đạo và từ thiện từ Mỹ vào truyền đạo và xây dựng cơ sở khắp miền Nam. Hội thánh Tin lành miền Nam rất chú trọng đào tạo mục sư và truyền đạo, nâng cấp “Trường kinh thánh” thành “Viện kinh thánh thần học” toàn miền Nam, cũng như đầu tư để mở hai trường kinh thánh trung cấp cho Tây Nguyên. Họ còn đưa nhiều mục sư và truyền đạo ra nước ngoài để đào tạo. Ngoài ra, Giáo hội Tin lành đã thành lập hệ thống tuyên truyền trong quân đội, từ Bộ Tổng tham mưu đến quân đoàn, quân khu và những đơn vị đặc biệt. Họ đã tuyển chọn và đưa gần 100 mục sư và truyền đạo vào ngụy quân.

Ngoài CMA, ở miền Nam còn có phái Tin lành được nhập từ Mỹ từ những năm 30 của thế kỷ XX, phát triển chủ yếu sau những năm 50, đó là phái Cơ đốc Phục lâm. Đây là phái lớn thứ hai sau CMA, có mạng lưới giáo hội với hơn 10.000 tín đồ, gần 40 mục sư, 34 nhà thờ và một số tổ chức tôn giáo xã hội khác. Hội thánh Cơ đốc Phục lâm còn có hơn 20 phái truyền giáo và xây dựng cơ sở ở miền Nam như: Phong trào Tẩy tội, Ngũ tuần, Nhân chứng Giêhôva, Chứng nhân của Jehovah…

Sau năm 1975, đất nước đạt được sự hòa bình và thống nhất, các giáo sĩ nước ngoài đã rời khỏi Việt Nam và một số giáo sĩ Việt đã di tản. Phạm vi và hoạt động của Hội Thánh Tin lành ở miền Nam đã thu hẹp. Hiện nay, Hội Thánh Tin lành Miền Nam chỉ còn khoảng 450 giáo sĩ và 487 nhà thờ. Tuy nhiên, đạo Tin lành vẫn phát triển mạnh ở hai miền Nam và đến năm 1990 đã có khoảng 300.000 người theo đạo.

Trong những thập kỷ gần đây, các tôn giáo Tin lành đã tăng cường hoạt động như phục hồi các hình thức tôn giáo, phát triển đạo hữu và củng cố giáo phái. Nhiều hoạt động đã được thực hiện, bao gồm tái thiết các tổ chức cũ, quan hệ với bên ngoài… Cơ quan cứu trợ và phát triển Cơ đốc Phục lâm đã thực hiện một số dự án viện trợ nhân đạo trong lĩnh vực y tế, giáo dục, thuỷ lợi và ngư nghiệp.

Xét về diễn biến 100 năm của đạo Tin lành tại Việt Nam, ta có thể thấy rằng quá trình này bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các sự kiện chính trị xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước bị chia cắt. Hội thánh Tin lành Việt Nam ban đầu là một tổ chức duy nhất nhưng sau đó lại bị chia rẽ thành hai tổ chức giáo hội ở hai miền với những đặc điểm chính trị và quy mô khác nhau. Tuy nhiên, đạo Tin lành đã có sự phổ biến trong quần chúng ở nhiều vùng trên đất nước, hiện nay đã có khoảng hơn 1,2 triệu tín đồ. Đặc biệt, trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây, đạo Tin lành đã có sự phát triển đáng kể ở các vùng Tây Nguyên, Tây Bắc và một số vùng dân tộc thiểu số khác, tuy nhiên cũng có một số vấn đề nhạy cảm và phức tạp cần được giải quyết.

Một số vấn đề đặt ra hiện nay

Có thể thấy Tin lành đang là một vấn đề nổi bật đột xuất trong các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Sự xuất hiện của cộng đồng Tin lành ở Việt Nam gần đây đã trở thành những vị trí nhạy cảm và phức tạp.

Đầu tiên, có sự xung đột với các truyền thống gia đình, xã hội, tôn giáo khác ở Việt Nam. Đối với mỗi người Việt Nam, thờ cúng tổ tiên, ông bà, thành hoàng và những người đã đóng góp cho đất nước là rất thiêng liêng, thậm chí được coi là tiêu chuẩn hàng đầu về đạo đức của mỗi thành viên trong gia đình, họ tộc, làng xóm. Những tập tục xuất phát từ nghi lễ được ảnh hưởng bởi Nho giáo, thể hiện lòng hiếu thảo của con cái với cha mẹ, ông bà như giỗ chạp, ma chay, cưới xin đã đóng góp vào văn hóa đẹp với ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Trong khi đó, đạo Tin lành là một tôn giáo tôn trọng một đức Chúa Trời duy nhất và không thờ tranh ảnh, tượng thánh. Tín đồ chính thức của đạo Tin lành không được dự vào việc hương hoả, cúng cấp cùng các sự dị đoan, không được sử dụng hoặc buôn bán các vật không phù hợp với tôn chỉ của đạo Tin lành như: thuốc phiện, rượu, các vật phẩm thờ cúng hình tượng.

Đạo Tin lành cũng có những lập luận để phản đối các tập tục gia đình và tín ngưỡng cổ truyền như: Thờ tổ tiên trong gia đình chỉ kéo dài vài đời; thờ tổ tiên trong dòng họ chỉ kéo dài khoảng hai mươi đời, vậy trước đó không phải đã có tổ tông xa rồi sao? Vì vậy, chúng tôi chỉ thờ một mình Đức Chúa Trời là tổ tông của chúng ta. Khi Đạo Tin lành được giới thiệu vào Việt Nam, các nhà truyền giáo đã cố gắng bác bỏ và tuyên bố đối đầu với hệ thống tín ngưỡng của người Việt như: sử dụng địa lý, chọn ngày, thờ thần thổ công, thờ bà chúa Liễu Hạnh…

Do đạo Tin lành đang phát triển, đó cũng đồng nghĩa với việc thay đổi lối sống, tâm lý, tình cảm, xã hội, văn hoá, tín ngưỡng dân tộc. Tuy nhiên, điều này cũng gây ra sự chia rẽ trong gia đình, dòng họ, và lưu lại những định kiến hoài nghi về chính phủ. Điều này có thể làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, và còn dễ dàng bị các phần tử xấu lôi kéo vào chống đối chính quyền và gây nổi loạn. Chúng ta phải đối mặt với những thách thức này.

Hơn nữa, hiện nay các thế lực đối đầu và lực lượng chống lại muốn sử dụng đạo Tin lành để propaganda chủ nghĩa li khai, giải phóng lãnh thổ. Ở Việt Nam, điều này đã trở thành thực tế khi mà Tin lành lan toả một cách nhanh chóng ở những vùng đất “khó khăn” của đất nước: miền núi phía Bắc, Tây Nguyên…

Đặc biệt, sự phát triển của đạo Tin Lành trong các đồng bào dân tộc thiểu ở Tây Nguyên là kết quả và đồng thời là yếu tố góp phần vào những diễn biến chính trị phức tạp tại địa bàn này trong thời gian gần đây. Đạo Tin Lành đã xuất hiện tại Tây Nguyên từ những năm 1920 của thế kỷ trước và từ đó đến nay, nó đã chiếm lĩnh không gian xã hội cao nguyên, xâm nhập vào cuộc sống của cộng đồng, thay thế cho những nét văn hóa truyền thống và phát triển trong các nhóm xã hội mới theo xu hướng chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Ví dụ, nhà thờ Tin Lành đã thay thế cho nhà Rông trong việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của cộng đồng Tây Nguyên. Lễ Noen, Phục sinh đã thay thế cho lễ Cơm mới và lễ Năm mới cổ truyền…

Số lượng người theo đạo Tin lành ở vùng đất đỏ ba gian này đang ngày càng tăng lên và chiếm 50% số tín đồ Tin lành trên toàn quốc. Vì thế, các thế lực thù địch luôn cố gắng kích động, khuyến khích chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sự phân biệt và sự ly khai giữa một số tầng lớp của dân tộc Tây Nguyên. Đồng thời, họ cũng tuyển mộ các lực lượng này vào các phong trào bạo loạn nhằm chống lại chính quyền chính trị của đất nước.

Hiện nay, theo chiến dịch nhân quyền và tự do tôn giáo của chính phủ Mỹ, Ksorkơk và các phần tử chính trị phản động gốc Tây Nguyên đã lưu vong ở Mỹ và tạo ra một tổ chức được gọi là “Hội thánh Tin lành Đềga” để đòi lập nên nhà nước Đềga cho người Thượng. Điều này là một phương pháp chính trị nguy hiểm và lưu manh, lôi kéo một số tín đồ của Hội thánh Tin lành miền Nam, gây ra một cuộc chiến chính trị với đội lốt tôn giáo vào đầu năm 2001 và năm 2004.

Vấn đề tôn giáo Tin lành hiện nay vẫn là một chủ đề “đầy tiềm năng” để các thế lực thù địch Việt Nam và các nhóm cơ hội chủ nghĩa trong chính quyền Mỹ tận dụng trong các chiến dịch về nhân quyền và tự do tôn giáo.

Với sự đảm bảo và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân, chính phủ Việt Nam đã nỗ lực giải quyết các vấn đề tôn giáo, đặc biệt là đối với Tin lành. Từ năm 1958, Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) đã được công nhận tư cách pháp nhân. Điều này chứng tỏ sự tồn tại của đạo Tin lành tại Việt Nam và đưa Tin lành vào thể chế luật pháp tôn giáo để khai thác những mặt tích cực. Tuy nhiên, chúng ta phải kiên quyết chống lại bất kỳ nhóm người nào lợi dụng đạo Tin lành để phá hoại sự đoàn kết toàn dân và hại đến nền văn hoá lành mạnh của dân tộc.

Với hơn 100 năm có mặt tại Việt Nam, đạo Tin lành là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới. Để phát triển tại đất nước này, đạo Tin lành đã áp dụng các hình thức hoạt động linh hoạt, giáo lí và lễ nghi được đơn giản hóa, quần chúng hóa, phù hợp với phong tục tập quán của người dân địa phương. Do đó, số lượng tín đồ đạo Tin lành tại Việt Nam ngày càng tăng. Điều quan trọng là tín đồ đạo Tin lành luôn hoà nhập vào cộng đồng dân tộc và tôn trọng lịch sử mới, không đối lập với lợi ích của dân tộc. Chúng ta hy vọng rằng cộng đồng Tin lành tại Việt Nam sẽ theo đuổi tinh thần “kính chúa, yêu nước”, “sống phúc âm” như được đề ra bởi Hội thánh Tin lành miền Bắc và miền Nam.

Tìm hiểu thêm: Lịch sử và sự khác biệt giữa Tin Lành và Công Giáo


Posted

in

by

Tags:

Comments

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *