Theo Lời Phật tìm hiểu, trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam – Tứ phủ, ở hầu hết các đền, điện, phủ, chúng ta thường thấy tượng ”Tam Tòa Thánh Mẫu” có áo khác nhau với màu sắc đỏ, xanh, trắng lần lượt đại diện cho miền Thiên (Thiên phủ), miền Nhạc (Rừng phủ), miền Thoải (Nước phủ).
Tam Tòa Thánh Mẫu là một địa điểm tôn giáo ở Việt Nam. Những người bao gồm trong Tam Tòa Thánh Mẫu là ai?
Các bàn thờ thường có Tam Tòa Thánh Mẫu, bao gồm 3 nữ thần khác nhau: Nữ thần Đệ Nhất Thượng Thiên, Nữ thần Đệ Nhị Thượng Ngàn và Nữ thần Đệ Tam Thoải Phủ.
Tượng Tam Tòa Thánh Mẫu bằng sứ – Bạch Thổ Phường
Thiên đường mẫu tự
Thiên đường mẫu tự (hay còn gọi là Mẫu Đệ Nhất) có trách nhiệm quản lý miền trời. Theo quan niệm dân gian về Tứ Pháp, Thiên đường mẫu tự bao gồm 4 vị nữ thần gồm Pháp vân, Pháp Vũ, Pháp Điện và Pháp Lôi, họ tạo ra Mây – Mưa – Sấm – Chớp và có ảnh hưởng đáng kể đến nền văn hóa nông nghiệp lúa nước. Đền thờ Thiên đường mẫu tự có ở khắp mọi nơi, nhưng vẫn có những nơi Mẫu giáng trần hoặc hiển linh lưu dấu thánh tích. Ngày hội chính của Mẫu là ngày 3/3 âm lịch, được tổ chức tại nhiều địa phương.
Tượng Thiên đường mẫu tự ( Tượng Mẫu Đệ Nhất) – Bạch Thổ Phường
Mẫu cao nhất của dãy núi
Mẫu cao nhất của dãy núi (còn được gọi là Mẫu Đệ Nhị) chịu trách nhiệm quản lý miền rừng núi. Có thể nói Mẫu cao nhất của dãy núi liên quan chặt chẽ đến tự nhiên, cả người, thực vật và động vật. Đền thờ Mẫu cao nhất của dãy núi có ở nhiều địa điểm, nhưng Suối Mỡ (Bắc Giang) và Bắc Lệ (Lạng Sơn) là hai nơi thờ cúng chính. Đền thờ Mẫu cao nhất của dãy núi có mặt ở khắp mọi vùng, đặc biệt là ở những nơi rừng núi. Ngày hội chính của Mẫu cao nhất của dãy núi là ngày 20/9 âm lịch.
Tượng Mẫu cao nhất của dãy núi (Mẫu Đệ Nhị) – Bạch Thổ Phường
Mẫu Thoải Phủ
(Còn được gọi là Mẫu Đệ Tam, Mẫu Thủy) quản lý miền sông nước. Mẫu Thoải liên quan trực tiếp đến Thủy Tổ dân tộc Việt trong thời kỳ đầu xây dựng đất nước và đã gắn bó với đời sống thủy sinh của người Việt từ lâu đời. Mặc dù không có dấu tích của Mẫu, nhưng đền thờ Mẫu Thoải được xây dựng nhiều ở các nơi cửa sông cửa biển và được tôn kính bởi lòng thành kính của nhân dân. Ngày hội chính của Mẫu Thoải là ngày 10/6 âm lịch, thường được tổ chức trang trọng nhất tại Đền Mẫu Thác Hàn Sơn.
Tượng Mẫu Thoải Phủ (Mẫu Đệ Tam) – Bạch Thổ Phường
Lễ kính Thánh Mẫu
Trước tiên, chúng ta cần phân biệt các khái niệm: Chùa, đền, đình, miếu, nhà Thánh, nhà thờ… Chùa là nơi tôn kính Phật. Đền là nơi tôn kính Thánh (bao gồm 2 giòng chính, đền thờ Thánh Mẫu và đền thờ Đức Thánh Trần). Miếu là nơi tôn kính Thành Hoàng, Thổ Công. Nhà Thánh là nơi tôn kính Khổng Tử. Nhà thờ là nơi tôn kính Thánh tổ của các đạo giáo, tổ phụ, gia tiên của các dòng họ. Đình là nơi tổ chức họp làng không phải là nơi cúng thờ, tuy nhiên do tình hình kinh tế của các địa phương khác nhau, có nơi đưa việc cúng thờ vào đình làng. Đây là trường hợp ngoại lệ. Vì mục đích khác nhau, lễ nghi cúng thờ ở đền, chùa, miếu, nhà Thánh, nhà thờ… Cũng có sự khác biệt.
Lễ rước tượng Tam Tòa Thánh Mẫu – Bạch Thổ Phường
Tại chùa và nhà thờ, các đạo giáo thường thực hiện các nghi thức chính là đọc kinh, hành lễ và ban phước. Trong khi đó, ở các đền thờ, nhân dân và các triều đại đã ban sắc và phong Thánh cho những vị có công với dân tộc và đất nước. Những vị Thánh đó được tôn thờ và ngưỡng mộ bởi người Việt từ thế hệ này qua thế hệ khác, và đó là những vị Thánh đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Nghi thức thờ cúng trong các đền thờ Thánh Mẫu được gọi là hầu, bao gồm 2 dạng: hầu bóng (hay còn gọi là hầu mát) và hầu đồng. Hầu bóng chỉ đơn thuần là các nghi lễ thờ cúng, người hầu thực hiện các nghi lễ theo trình tự bài bản từ xưa để lại. Trong khi đó, hầu đồng cũng diễn ra theo các trình tự như hầu mát, nhưng được quan niệm là người hầu đã có phần hồn của các vị Thánh Linh giáng vào và nhập vào. Bài viết này chỉ tập trung vào các thủ tục, lễ nghi và nghi thức hầu mát trong các đền thờ Thánh Mẫu. Đền thờ Thánh ở Việt Nam được chia thành hai hệ thống: Tứ Phủ và Tam Phủ, đó là một hệ đền thờ Thánh Mẫu và một hệ đền thờ Hưng Đạo Đại Vương cùng với các tướng lĩnh và gia thân của nhà Trần. Người Việt gọi hai hệ đền thờ đó bằng tên gọi thân mật và giản dị là đền thờ Cha và đền thờ Mẹ. Trong các đền thờ Thánh Mẫu, vị Mẫu Đệ Nhất (công chúa Liễu Hạnh) đứng đầu.
Tiếp theo đó là Mẫu Đệ Nhị, Mẫu Đệ Tam và các Chầu (tức là các Mẫu thuộc các dân tộc thiểu số), từ Chầu Bà đến Chầu Bé, tổng cộng có 12 Chầu. Sau đó là 12 quan lớn theo thứ tự Quan Lớn Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam…Sau 12 Quan Lớn là 12 ông Hoàng, gọi theo thứ tự Hoàng Nhất, Hoàng Đôi, Hoàng Bảy, Hoàng Mười…Tất cả các Quan Lớn và Ông Hoàng đều có thần phả, một số vị còn có gốc tích nhân thần, quê hương và sắc phong của các triều đại.
Ví dụ, ông Hoàng Bảy có lăng miếu riêng tại Lào Cai, ông Hoàng Mười ở Nghệ An và nhiều người khác. Sau các ông Hoàng là các Cô, các Cậu, cũng là những nhân vật lịch sử, một số vị có lăng miếu riêng tại các địa phương trong nước. Ví dụ, Cô Bơ có lăng miếu tại Thanh Hóa, Cậu Út có lăng miếu tại Cửa Sót, Hà Tĩnh…
Tìm hiểu thêm: Thánh Mẫu Liễu Hạnh (bà chúa Liễu Hạnh) là ai, được thờ ở đâu?
Trả lời