Theo Lời Phật tim hiểu, Chùa Tây Phương, hay còn gọi là ”Sùng Phúc tự”, là một di tích kiến trúc nghệ thuật đắt giá, nằm tại xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 40 km về phía Tây, theo Đại lộ Thăng Long. Đến ngã tư Chùa Thầy, quý khách hãy rẽ phải và đi thêm khoảng 5 km, sau đó rẽ trái 1 km nữa, là đến được di tích này.
Theo truyện thuyết, ngôi chùa được xây dựng liên quan đến việc truyền bá Phật giáo vào Việt Nam. Sau vài thế kỷ, câu chuyện lại xoay quanh nhân vật Cao Biển – Tiết Độ sứ thời nhà Đường (864 – 868) đã cai trị An Nam và đến đây xây dựng một kiến trúc tôn giáo nhằm chặn đứng sự lụn tàn của xứ này.
Cổng chùa Tây Phương ở Thạch Thất – Hà Nội.
Truyền thuyết vẫn là truyền thuyết, trong khi các chứng tích vật chất liên quan đến ngôi chùa chỉ được ghi nhận vào thời kỳ của Mạc Phúc Nguyên (1547 – 1561). Đó là thời điểm mà ngôi chùa đã có quy mô như ngày nay. Sau đó, Vua Lê Thần Tông, Chúa Tây Vương Trịnh Tạc và Vua Lê Hy Tông đã sửa chữa thêm, nhưng không nhiều.
Chùa Tây Phương không chỉ nổi tiếng về sự cổ kính qua truyền thuyết và lịch sử, mà còn được biết đến với cảnh quan đẹp mê hồn. Vị trí của nó trên đỉnh núi Câu Lâu giữa vùng đồng bằng màu mỡ, với núi, non, sông, nước gắn liền với quan niệm phong thủy phương Đông. Ngoài ra, Chùa Tây Phương còn nổi tiếng với bộ tượng thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng, được coi là Phật điện đông đúc nhất trong các ngôi chùa ở Việt Nam, có giá trị tiêu biểu và được công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2013.
Chùa Tây Phương hiện nay được phân chia thành nhiều phần khác nhau bao gồm Tam quan hạ, Tam quan thượng, Miếu Sơn Thần, Tiền đường, Trung đường, Thượng điện, Nhà tổ, Nhà Mẫu và Nhà khách.
Chùa Tây Phương nhìn từ sân nhà khách.
Từ Tam quan hạ phái lên đến Tam quan Thượng cần đi qua 247 bậc đá ong. Miếu Sơn Thần nằm bên trái chùa, tách biệt với khu vực chính của chùa. Đây là một đơn nguyên không chỉ đóng vai trò là nơi thờ thần núi, mà còn là nhà thờ Đức Ông, với diện tích khiêm tốn và kiến trúc gỗ lợp ngói truyền thống. Chùa Chính là hạng mục chủ yếu của toàn bộ phức hợp Tây Phương. Chùa nằm trên đỉnh núi Câu Lâu, có kết cấu kiến trúc chữ công (I), bao gồm các toà Tiền đường, Trung đường và Thượng điện. Cả ba tòa đều có kết cấu kiến trúc khung gỗ kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái. Cả hai tầng mái đều theo kiểu “tàu đao lá mái”, giữa hai tầng là cổ diêm được bưng kín bởi những tấm ván đố. Tiền đường và Thượng điện có 5 gian, 2 chái với 6 bộ vì nóc, còn Trung đường được thu ngắn chiều ngang, chỉ còn 3 gian 2 chái, 4 bộ vì kèo, nhưng lại có mái thượng điện cao vượt hẳn lên.
Phần cổ diêm ở Tiền đường và Thượng điện có kích thước tương tự nhau và cao 1m, trong khi ở Trung đường thì kích thước lớn hơn, cao 1,40m. Vì cổ diêm cao hơn như vậy, nên mặc dù mái của cả 3 tòa đều cao bằng nhau, nhưng mái trên của tòa giữa lại nổi bật hơn, khiến cho nó cao hơn rất nhiều so với hai tòa còn lại. Mặt trước của tòa Tiền đường có cửa gỗ bưng cửu và bức bàn ở 3 gian giữa, hai bên xây bằng gạch không tra tô vôi vữa, đây là ngôn ngữ của mặt tường bên ngoài, thể hiện cho cả ba phần của đơn nguyên.
Chùa chính Tây Phương vẫn còn nhiều điều đặc biệt về cấu trúc khung gỗ, tàu mái, bộ mái, cùng các mảng đề tài trang trí trên kiến trúc gỗ. Để thấy rõ vẻ đẹp của ngôi chùa nói chung, kiến trúc ngôi chùa chính nói riêng, không có bài viết nào nói hết. Mong du khách thập phương, những người hành hương đến thăm để có thể thấy rõ vẻ đẹp của hạng mục này.
Ngoài Chùa Chính là một đơn nguyên nổi bật, ngoài Tam quan hạ và Tam quan Thượng được đề cập trên, thì cùng với Nhà Tổ, Nhà Mẫu, Nhà Khách và các đơn nguyên đó đã tạo nên vẻ trang trọng, quy mô lớn của khuôn viên Tây Phương.
Bên trong nhà Tổ chùa Tây Phương.
Nhà Tổ – Nhà Mẫu được xây dựng theo kiểu 3 gian hai diễn, có kết cấu theo kiểu chữ “Nhi” (=). Phía bên ngoài là nhà Tổ, phía bên trong là nhà Mẫu. Các vị trí chính của nhà Tổ được liên kết theo kiểu “vì keo gia chiêng”. Ba gian giữa của nhà Tổ được mở cửa bằng cửa bức ba bàn, hai gian chái ở đầu lại được mở bằng cửa ván đố. Trên mái nhà và cột, không áp dụng kết cấu “vì keo gia chiêng” mà thay bằng kết cấu “chồng rường”. Các con rường được chạm hoa, lá, đao mạc. Tại bốn chiếc cột ở đây, nghệ nhân đã chạm hình cây mai, tùng, cúc, trúc, được quyển trong đề tài mai điểu, trúc tước, cúc điệp, tùng lộc, có phong cách tương đồng với nghệ thuật Chùa Chính.
Khu nghỉ dưỡng nằm bên phía phải của Chùa Chính có nhà khách được xây dựng lại trong những năm gần đây, nhưng vẫn giữ kiến trúc truyền thống và phong cách của các đơn nguyên Tây Phương. Nhà khách bao gồm 7 căn nhà được xây theo kiểu tường hồi biết độc, mái lợp ngói ri và hai hồi dài thoa dần theo hình tay ngai. Các bộ vị keo được làm theo kiểu keo kẽ, bào trơn đóng chặt. Các vị bên trong được làm theo kiểu “giá chiêng kẻ ngồi”. Hai bộ vị keo được làm theo lối ván mê đố lụa với hoa văn giản lược.
Đặc điểm nổi bật của Tây Phương đối với du khách là hệ thống tượng Phật, với những kiệt tác hiếm có trong nghệ thuật điêu khắc tôn giáo. Tiêu biểu là các pho Tuyết Sơn, Thập bát vị La Hán, Bát bộ kim cương, có niên đại thế kỷ 18. Ngoài ra còn có nhiều pho tượng nổi tiếng khác, thuộc thế kỷ 19, cũng rất ấn tượng. Có thể nói, Tây Phương là một bảo tàng về tượng Phật giáo Việt Nam. Nói như vậy, chắc cũng không quá phóng đại hay cường điệu.
Tòa thủy đình mới xây dưới chân núi Tây Phương.
Chùa Tây Phương được xếp hạng đầu tiên trong các ngôi chùa ở Việt Nam về kiến trúc độc đáo, kết hợp giữa phong cách truyền thống và không gian tự nhiên. Với bộ tượng Phật trong chùa, nó có giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật cao, xứng đáng với danh hiệu “đệ nhất cổ tự”. Vì vậy, vào năm 2014, Chính phủ đã công nhận ngôi chùa này là Di tích Quốc gia đặc biệt về giá trị kiến trúc nghệ thuật.
Viết về Tây Phương chắc chắn còn phải nhiều giấy mực, tuy nhiên để cảm nhận đầy đủ và toàn vẹn về Tây Phương, mong du khách và người hành hương phải đến thăm đất nước này mới thấy hết được. Lễ hội chùa Tây Phương vào ngày 6-3 Âm lịch, nhưng được diễn ra trong nhiều ngày trước đó với nhiều sinh hoạt văn hóa mang đậm chất xứ Đoài, đó là kéo co, đánh cờ, vật, chọi gà, rối nước, hát xứ Đoài… Cùng với nghi thức cúng Phật trang nghiêm như lễ mộc dục, chạy đàn, tụng kinh, kế hạnh… Đã tạo nên một không khí, không chỉ quy mô hội làng mà còn mở rộng ra vùng và liên vùng, mà bài viết này muốn giới thiệu sơ qua để du khách trải nghiệm. Tuy nhiên, để tận hưởng đầy đủ và toàn vẹn, mong du khách phải đến nhiều hơn với Tây Phương thì mới có thể thoả mãn, khi bên trong đó còn chứa nhiều điều bí ẩn, mà người viết bài này không thể giới thiệu hết.
Trả lời