BỬU SƠN KỲ HƯƠNG Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
Theo Lời Phật tìm hiểu, Giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương là một tôn giáo quy tụ đông đảo tín đồ, có sức ảnh hưởng lớn đến lịch sử chính trị và tôn giáo tại miền Nam từ giữa thế kỷ 19. Các giáo phái Phật giáo Hòa Hảo, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa… Cũng là những hậu thân của giáo phái này.
Lịch sử.
Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời vào năm 1849 do Đoàn Minh Huyên, một người không có danh tiếng khai sáng. Sau đó, người dân tôn kính ông là Đức Phật Thầy Tây An. Vào thời kỳ chuyên chế kiểu nhà nước chưa được thiết lập vững chắc, miền Tây Nam Bộ đang trong quá trình khai phá, khiến vùng đất hoang dã trở thành nơi tập trung của dân cư từ khắp nơi. Trong một hoàn cảnh chính trị-xã hội đặc biệt, xã hội và tâm lý của người dân đều bị xáo trộn bởi chiến tranh biên giới liên tục, mất mùa đói kém, dịch bệnh chết chóc năm 1849 – 1850, đặc biệt là ở vùng biên giới Tây Nam.
Trong tình huống đó, ông Đoàn Minh Huyên từ Tòng Sơn đến Tràm Dư, sau đó đến vùng Kiến Thạnh (hiện nay là làng Long Kiến, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) để chữa bệnh cho người dân. Nhờ kết quả điều trị tốt, ông đã giúp đỡ nhiều bệnh nhân và người thân của họ để cải thiện tính cách, tôn trọng gia đình và tôn thờ đạo Phật.
Ngày càng có nhiều người theo đạo của ông, do đó vào năm 1849, ông thành lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương[2], sau đó từ năm 1856, ông đến các vùng đất phía tây Thất Sơn và Láng Linh, xây dựng các đền chùa, trại ruộng và đi khắp vùng miền này.
Danh từ Bửu Sơn Kỳ Hương này được truyền từ lúc ông đến ở Núi Sam. Mỗi khi ông nhận được một người qui y thọ giáo, ông sẽ tặng cho họ một chiếc lòng phái có ghi bốn chữ Bửu-Sơn Kỳ-Hương bằng son trên giấy vàng. Ông cũng có một bài thơ nói về điều này:
Vua Bửu Ngọc của Việt Nam đã tái lên ngôi và phục hưng đất nước sau một thời kỳ khó khăn.
Các thời kỳ phổ hóa.
Thời kỳ phổ hóa hay còn được gọi là thời kỳ phát triển Đạo được chia thành ba giai đoạn khác nhau. Giai đoạn đầu tiên gồm các vị Phật Thầy Tây An và Phật Trùm, giai đoạn thứ hai gồm Đức Bổn Sư và giai đoạn thứ ba gồm Sư Vãi Bán Khoai và Huỳnh Giáo Chủ. Đây là những vị Đạo mà các tín đồ tin rằng chúng đã được Phật Thầy Tây An chuyển kiếp thêm bốn lần để giáo hóa chúng sinh.
Đức Phật Thầy Tây An được biết đến với tên gọi Đoàn Minh Huyên, là người sáng lập giáp phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Sau đó, ông đã thực hành tu tại chùa Tây An và qua đời vào năm 1856.
Dù ra đi sớm, Đoàn Minh Huyên đã có nhiều đóng góp như chữa bệnh miễn phí, xây nhiều nơi cư trú cho người khó khăn và tu hành để cung cấp cho tín đồ hành đạo và tự làm lấy miếng ăn.
Sự phát triển của Đạo tại Châu Đốc và Long Xuyên đang diễn ra rất nhanh, đồng thời còn được truyền giáo ở Cao Miên bởi bà Năm Chòm Dầu, ở vùng Sa Đéc và Vĩnh Long có ông Đạo Ngoạn, và ở các tỉnh miền Đông cũng có ông Đạo Xuyến…
Trần Văn Thành (1820 – 1873), hay còn gọi là Đức Cố Quản, trưởng thành trong thời kỳ loạn lạc khi quân Pháp chiếm sáu tỉnh Nam kỳ và phong trào kháng Pháp lan rộng. Ông từng là chánh quản cơ trong quân ngũ, nhưng sau đó ông tham gia phong trào Cần Vương kháng Pháp và vận động đồng bào, tín đồ Bửu sơn Kỳ Hương cùng quân lính của mình, về Láng Linh – Bảy Thưa để xây dựng căn cứ và phát động cuộc khởi nghĩa với tên gọi Binh Gia Nghị. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa đã sớm thất bại do thiếu võ khí và chưa kịp xây dựng đồn lũy kiên cố.
Phật Trùm, một người gốc Khmer và ít học, không thạo tiếng Việt. Tuy nhiên, vào năm 1866 sau khi bị bệnh nặng, ông tỉnh táo và khỏe lại và cho rằng mình là hậu duệ của Phật Thầy Tây An, là hồn Trùm của Phật (nên được tín đồ gọi tôn là Phật Trùm). Từ đó, ông đi giảng đạo toàn bằng tiếng Việt và chữa bệnh cho đến khi qua đời vào năm Ất Hợi (1875). Thời điểm này là sau vụ khởi nghĩa của Đức Cố Quản, Pháp truy nã những tín đồ của Bửu Sơn Kỳ Hương.
Tóm lại, từ khi Đức Phật Thầy Tây An khai sáng cho đến khi Đức Phật Trùm viên tịch, giáo phái đang trong giai đoạn xây dựng và phát triển với nhiều ngôi chùa và trang trại được thành lập khắp mọi nơi.
Đức Bổn Sư Bài chi tiết: Ngô Lợi Đức Bổn Sư hay ông Năm Thiệp ((1831 -1890), biệt danh là Ngô Lợi. Theo truyền thống, từ khi còn nhỏ cho đến khi trưởng thành, Ngô Lợi không có bất cứ dấu hiệu gì đặc biệt. Tuy nhiên, vào năm 1851, khi ông 20 tuổi, ông viết Bà La Ni Kinh dài 223 chữ Hán, trở thành một trong những quyển kinh quan trọng của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Năm Đinh Mão (1867), ông đột ngột bất tỉnh và sau 7 ngày 7 đêm, ông tỉnh lại. Từ đó, ông đã đi giảng đạo khắp nơi, đưa các tín đồ đến xã An Lộc (An Giang) để xây dựng chùa vào năm 1872 và cũng tham gia chiến đấu chống lại thực dân Pháp.
Sau khi ông qua đời, vì không có ai thừa kế nên tất cả công việc được giao cho ông Trò và ông Gánh phụ trách. Do đó, ở mỗi địa phương có những nghi lễ khác nhau, thậm chí có những người sử dụng phù chú để chữa bệnh, điều này có thể dẫn đến sự mê tín dị đoan và làm sai lạc giáo lý ban đầu của đạo.
Sư Vãi Bán Khoai là một nhân vật lịch sử đặc biệt. Sau khi Đức Bổn Sư qua đời khoảng 11 năm, ông xuất hiện vào khoảng năm Tân sửu (1901) và năm Nhâm dần (1902) khi thời kỳ quân Pháp đang thi hành chính sách đàn áp các tín đồ của giáo phái. Ông đã tạo ra một sự mạnh mẽ cho giáo phái trong thời kỳ phổ biến bằng cách truyền giáo bằng phương pháp giả dạng thay hình, khi thì làm người bán khoai, khi thì làm kẻ bán củi. Ông cũng xưng khùng xưng điên và đi khắp nơi, đặc biệt là ở vùng Kinh Vĩnh Tế và Cao Miền, khuyến khích dân sanh tu hành niệm Phật. Ông đã để lại một quyển sách quý giá cho người đời gồm 11 chương về Sám giảng. Tuy nhiên, sau đó ông đã mất tích và không ai biết ông đi đâu.
Đức Huỳnh, người sáng lập đạo Hòa Hảo (hay còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo), tục danh Huỳnh Phú Sổ (1920-1947) là một giáo chủ nổi tiếng.
Pháp môn.
Tại Thới Sơn, “Trần Điều” của Giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương theo chủ trương phương pháp Tu Nhân Học Phật cắt giảm từ cách hành pháp của Phật Giáo. Tuy nhiên, Đức Phật Thầy Tây An tôn vô vi (không quan tâm đến hình thức, nghi thức), trong khi Đức Bổn Sư tôn trọng sắc tướng (nghi thức, hình tượng) [6]. Ngoài việc tu thân theo đạo Nho để trở thành người quân tử, tín đồ còn được khuyến khích tu Tứ Ân Hiếu Nghĩa (bao gồm ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo và ân đồng bào nhân loại), đặc biệt là biểu hiện tinh thần Hiếu hạnh đối với Tổ tiên cha mẹ và Nghĩa khí đối với quê hương đất nước. Tín đồ còn được hướng dẫn để lo làm lành lánh dữ, cải thiện tâm tánh, và chăm chỉ niệm Phật. Tóm lại, Pháp môn tu hành của đạo là một hình thức Thiền – Tịnh song tu và hóa độ tùy theo tình huống.
Tập trung suy niệm theo Thiền phái; Thực hiện hành động theo triết lý Nho giáo. Tập trung luyện tinh, khí, thần theo triết lý Lão Tử. Áp dụng các bí quyết, lời nguyền theo triết lý Mật Tông.
Bửu Sơn Kỳ Hương rút ra ba điều quan trọng nhất của Phật giáo truyền thống là: Giới-Định-Tuệ. Giới là những quy tắc cần tuân thủ trong đạo, tránh vi phạm các lỗi lầm xấu và tránh làm những việc ác vô ích. Định: tĩnh tâm, thiền định để thoát khỏi sự lôi cuốn của cuộc sống và loại bỏ ham muốn, tập trung suy nghĩ để hiểu rõ đạo lý. Tuệ là sự hiểu biết sâu sắc về sự vô thường và khổ đau, kiểm soát bản thân và giải thoát khỏi những nỗi đau, và thấy được tinh thần Phật.
Về phương diện tôn giáo, mỗi gia đình, ngoài bàn thờ ông bà cha mẹ, còn có ngôi thờ Tam bảo, trên đó chỉ cúng đơn giản một tấm trần điều. Tín đồ không tuân thủ chế độ ăn chay, không thực hiện nghi thức gõ mõ tụng kinh, không cạo tóc hay râu. Vật phẩm cúng tế chỉ bao gồm hương hoa và nước lã đơn giản. Chỉ cần truyền bá và lắng nghe giáo lý, không cần viết lại. Đơn giản hóa hình thức cúng tế và nghi thức tụng niệm.
Đặc điểm của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương.
Bửu Sơn Kỳ Hương là một tông phái không phải của Phật giáo, nhưng vẫn có tính dân gian và thực tiễn. Tông phái này đơn giản hóa và bình dân hóa đạo Phật, đưa đạo Phật và các truyền thống dân tộc vào cuộc sống của những người tín đồ. Tín đồ chỉ cần niệm Phật và tu tại gia, không cần ly thân xuất gia, không cần cạo râu tóc và không cần sử dụng các hình thức cúng tế cầu kỳ. Tứ Ân cũng là nét tinh túy của văn hóa Việt Nam, biểu hiện sự trọng đạo nghĩa và kế thừa tinh hoa trong truyền thống như lòng yêu nước, tình thương nhân loại, tính đoàn kết, đạo thờ cúng tổ tiên, lòng biết ơn anh hùng liệt sĩ, tính cần cù, yêu lao động. Tông phái này đã theo thuyết “vô vi” của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần và đã hòa nhập vào cuộc sống sâu xa và cụ thể đến mức không còn phân biệt hình tướng, là tu sĩ hay cư sĩ, đã trở về với cội nguồn dân tộc, qua truyền thống yêu nước, qua trang phục bình dân như chiếc áo bà ba màu đà, màu của ruộng đồng phù sa Nam Bộ và qua các hình thức thờ phụng gần gũi với tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc là thờ cúng tổ tiên.
Sự ứng dụng thực tiễn của Đạo được thể hiện qua các hoạt động như tự lập trang trại để tự cung cấp cho cuộc sống và sự hòa giải giữa các tôn giáo (Khổng, Phật, Lão) và truyền thống dân tộc. Thông qua lao động, một phong trào khai hoang rộng lớn đã được sáng lập bởi ông Đoàn Minh Huyên, đó là nếp sống của dân tộc trong nhiều thế kỷ qua.
Tình yêu nước và đoàn kết dân tộc là một trong bốn đức tính (tứ đức) mà các tín đồ được khuyên thưởng ngoạn và tập trung đặc biệt. Vì vậy, tinh thần yêu nước cũng được thúc đẩy. Khi Pháp tấn công miền Nam, các tín đồ đã đáp ứng lời kêu gọi kháng chiến chống lại Pháp.
Bửu Sơn Kỳ Hương đã đề xuất các hoạt động có lợi ích thiết thực cho cuộc sống của người di cư. Ví dụ như vào năm 1851, Đoàn Minh Huyên đã chia đệ tử thành nhiều đoàn để đi khẩn hoang tại các vùng đất hoang vu, và họ đã thành lập những trại ruộng ở vùng Cần Lố (Đồng Tháp Mười) của ông Đạo Ngoạn; vùng Láng Linh của Quản cơ Trần Văn Thành; vùng núi Két (thuộc Thất Sơn) của ông Bùi Đình Thân (Bùi Thiền Sư), sau đó đã thành lập hai làng Hưng Thới và Xuân Sơn; vùng Cái Dầu của ông Nguyễn Văn Xuyến (Đạo Xuyến)… Nhờ vào niềm tin, tín đồ đã bám trụ và khẩn hoang, biến những vùng đầm lầy hoặc rừng rậm thành những vùng đất rộng lớn, màu mỡ.
Khi Pháp xâm lược miền Tây Nam Bộ vào năm 1867, những tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa do lãnh tụ Trần Văn Thành lãnh đạo tại Bảy Thưa (Láng Linh), tiếp tục truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc Việt và tư tưởng giáo lý “Tứ ân”. Tuy nhiên, vì lực lượng và vũ khí không đồng đều, cuối cùng cuộc khởi nghĩa này cũng không thể tránh khỏi thất bại.
Bửu Sơn Kỳ Hương thực sự là một tôn giáo được đưa vào, một tôn giáo với tình yêu đất nước có tác động quan trọng đến lịch sử chính trị và tôn giáo ở miền Nam.
Chùa thuộc giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương được thiết kế theo kiến trúc truyền thống “trước miễu, sau chùa”. Trong hình ảnh, ta còn có thể thấy các tín đồ đang mặc trang phục hành lễ. Theo Địa chí An Giang, tập 2, UBND tỉnh ấn hành, 2007, tr. 229, lòng phái là một miếng giấy vàng hoặc bạch, in bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương bằng son tàu. Người nhận lãnh tin tưởng rằng sẽ được bảo vệ khỏi tà ma, tai nạn và duy trì sức khỏe nếu mang theo lòng phái. Ông Đoàn Minh Huyên, một nhà yêu nước và tín đồ của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, đã khai sơn lập đình, khai hoang, phá rừng và chống lại những thú dữ để tạo ra một trại ruộng tập thể được gọi là “trại ruộng”. T.S Cao Thanh Tân đã viết về “Tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương ở miền Tây Nam Bộ” trên báo Biên phòng. Ngoài ra, Nguyễn Hiền Đức đã ghi lại lịch sử của giáo phái và các đệ tử nổi danh như Đình Tây, Đạo Lập, Đạo Thắng, Đạo Sĩ, Đạo Chợ, Đạo Đọt được gọi chung là Thập nhị hiền thủ.
Khám phá thêm Trang web của tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương để tìm hiểu về Bửu Sơn Kỳ Hương của tác giả Vương Kim, được xuất bản tại Long Hoa – Sài Gòn vào năm 1966.
Tìm hiểu: Bửu Sơn Kỳ Hương – Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia
Trả lời