Theo Lời Phật tìm hiểu, Trần Hưng Đạo có tên thật là Trần Quốc Tuấn, là con trai của vương Trần Liễu và được gọi là chú của cháu Trần Thái Tông.
Tôi sinh ra ở làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Sau đó, gia đình tôi chuyển đến hương Vạn Kiếp, thuộc huyện Chí Linh, châu Nam Sách, trên con đường Lạng Giang.
Ông sinh năm 1226, mất năm 1300, thọ 74 tuổi.
Ông được tôn vinh là anh hùng dân tộc, còn được biết đến với biệt danh ”Bình Bắc Đại Nguyên Soái”. Ông là một nhà quân sự xuất sắc, cũng như là một nhà chính trị tài ba và đầy đức tính, được coi là một bậc thầy văn chương.

Theo truyền thuyết, từ khi còn nhỏ Trần Quốc Tuấn đã rất thích chơi trò đánh trận và đã biết viết thơ khi chỉ mới 6 tuổi. Sau này, ông trở thành một học giả uyên bác, không chỉ giỏi văn chương mà còn am hiểu lực lượng quân sự, cưỡi ngựa và bắn cung đều thành thạo. Vào năm 1257, khi quân Nguyên xâm lược nước ta lần đầu, ông được giao phó trách nhiệm giữ biên thuỷ phía Bắc. Sau hơn 30 năm, trong hai cuộc kháng chiến chống lại quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1287-1288), ông được thăng chức lên làm Tiết chế Thống lĩnh toàn quân và đã giành được chiến thắng lẫy lừng, đánh bại quân Nguyên, đánh tan chúng ra khỏi đất nước.
Với sự thông thạo về văn võ, Tướng Trần Hưng Đạo đã hiểu rõ vai trò quan trọng của dân và quân trong chiến tranh. Ông đã đề xuất một chiến lược quân sự tuyệt vời, tập trung vào nhân dân, được thể hiện rõ rệt qua hai cuộc rút lui khéo léo khỏi Kinh thành Thăng Long, giúp nhà Trần tránh được tổn thất lớn và phá vỡ sức mạnh của địch. Ông đã thực hiện kế hoạch trồng cây trên các tuyến đường quân địch đi qua, sắp xếp sự hợp tác giữa binh sĩ và quân đội chính quy của nhà nước, cùng với các trận phục kích nổi tiếng như trận Bạch Đằng, đã giúp ông trở thành một huyền thoại. Ngay cả kẻ thù cũng phải tôn trọng Tướng Trần Hưng Đạo.
Ngoài tư tưởng quân sự kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn còn trở thành một tấm gương sáng về lòng trung nghĩa, biết vượt qua mọi hiềm khích cá nhân để đoàn kết các tôn thất và tướng tá trong triều nhằm giúp vua phò nước, đánh bại kẻ thù. Sử sách đã ghi lại câu nói nổi tiếng của ông với vua Trần Thánh Tông, khi đất nước đang lâm vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc: ”Xin bệ hạ hãy chém đầu tôi trước rồi sau sẽ hàng”. Trước khi qua đời, ông vẫn dành sự quan tâm đặc biệt cho vua Trần Anh Tông trong mọi chính sách của triều đình phong kiến, luôn khuyến khích ”Nới sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Ông không chỉ là một công thần của nhà Trần mà còn là một anh hùng lớn của dân tộc.
Ông thường đề cử nhiều tài năng giúp đất nước phát triển, góp phần thành công cho các ngành công nghiệp lớn như Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu… Mà không quan tâm đến địa vị xã hội của họ.
Trần Quốc Tuấn qua đời vào ngày 20 tháng Tám năm Canh tý (3-IX-1300) tại Vạn Kiếp. Sau khi qua đời, ông được triều đình phong tặng danh hiệu Thái Sư Thượng Phụ Thượng Quốc Công, Nhân võ Hưng Đạo Đại Vương. Ngôi đền tôn vinh ông tại Vạn Kiếp được gọi là “Đền Kiếp Bạc”.

Tác phẩm:.
– Binh gia diệu lý yếu lược (Còn gọi là Binh thư yếu lược).
– Vạn Kiếp tông bí truyền thư.
Hịch chư tỳ tướng viết (còn được biết đến là Hịch tướng sĩ). Bài viết này được sáng tác trước cuộc kháng chiến chống lại Nguyên Mông lần thứ hai, với mục đích kêu gọi các tướng sĩ nghiên cứu và rèn luyện binh thư để sẵn sàng đối phó với âm mưu xâm lược của địch. Bài viết chứng tỏ tài năng văn chương xuất sắc và lòng yêu nước cháy bỏng của Trần Quốc Tuấn.
Ông được xếp vào danh sách Mười Đại nguyên soái Thế giới kiệt xuất nhất.
Tìm hiểu thêm: Trần Quốc Uất – Vương Tử Đệ Tam Minh Hiến Vương
Trả lời