Theo Lời Phật tìm hiểu, Thiền sư Từ Đạo Hạnh (? – 1117) là một nhân vật văn hóa nổi tiếng, được tôn vinh là thánh, phật và vua. Ông cũng là một trong những người sáng lập của nghệ thuật chèo truyền thống, đồng thời là nghệ sĩ, tác giả kịch bản, đạo diễn và giảng dạy diễn viên.

Khói sương huyền thoại.
Theo quyển sách “Đại Nam nhất thống chí”, trong mục “Từ miếu”, có thuyết rằng ông là người từ thôn Đồng Bụt, huyện Yên Sơn (hiện nay là xã Ngọc Liệp, huyện Quốc Oai, Hà Nội). Cha của ông là Từ Vinh, còn mẹ của ông là Tăng Thị Loan. Ngày nay, tại Gò Nở thuộc Ngọc Liệp, vẫn còn mảnh đất cũ của gia đình ông.
Tuy nhiên, trong sách này, khi kể về sự tích Từ Đạo Hạnh ở phần “Tự quân”, lại được viết như sau: Thiền sư Từ Lộ Đạo Hạnh, người làng An Lãng, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc Hà Nội), đã tu tập tại am Hương Giang trong khu vực chùa Thiên Phúc (chùa Thầy, huyện Quốc Oai). Khi vua Lý Nhân Tông (1072 – 1128) đã cao tuổi mà không có con trai, em vua Sùng Hiền Hầu đã cùng Từ Đạo Hạnh bàn về việc cầu tự. Ông hứa sẽ đến khi phu nhân sắp sinh. Khi nhận được tin, ông đã tắm rửa sạch sẽ và vào trong động núi tại chùa Thầy. Phu nhân đã sinh con trai và sau đó trở thành vua Lý Thần Tông. Từ Đạo Hạnh đã qua đời và người dân trong làng đem xác ông vào trong khám gỗ để thờ. Hằng năm vào ngày 6-3 (âm lịch), các lễ hội được tổ chức để chuẩn bị cho ngày 7-3, ngày kỷ niệm của ông. Vào ngày này, người dân đổ về chùa Thầy để dự lễ. Trong chùa Thiên Phúc (chùa Cả – chùa chính), bên trái là tượng thiền sư, bên phải là tượng vua Lý Thần Tông và ở giữa là tượng Phật.
Khi thuộc nhà Minh ở phương Bắc, niên hiệu Vĩnh Lạc (1403 – 1427), xác của ông bị quân Minh thiêu rụi, cư dân đã đúc tượng ông để thờ. Vào thời triều vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497), cha của hoàng hậu Trường Lạc là Nguyễn Đức Trung đi cầu tự trong động chùa thì có một tảng đá rơi xuống, được sử dụng để tạc thành tượng Phật để thờ. Sau đó, hoàng hậu mơ thấy rồng vàng bay vào sườn trái, thụ thai và sinh con trai, vua Lê Hiến Tông (1498 – 1504).
Theo truyền thuyết dân gian, Từ Đạo Hạnh là người bản địa Nam Điền, làng Yên Lãng (hiện nay là làng Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội). Dù đỗ đầu khoa Bạch Liên nhưng ông không chọn con đường làm quan mà sang Ấn Độ học đạo. Trở về núi Thầy, ông truyền bá đạo, giúp đỡ người dân bằng cách chữa bệnh, dạy các trò đá cầu, đánh vật, múa rối nước, hát chèo… Những dấu tích mà ông để lại được ghi chép trong các tài liệu lịch sử. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (1782 – 1840) kể rằng trên núi Sài Sơn (Cổ Sài), có hang sâu là nơi ông giải thi (hóa), để lại dấu đầu và dấu chân khổng lồ. Trong chùa Thiên Phúc, có chuông đồng do Từ Đạo Hạnh cho đúc, đến đời Lý Nhân Tông, đại sư Huệ Hưng là đệ tử của ông đã soạn bài ký rồi Lạng Nghiệp Thường khắc chữ lên chuông, theo “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn. Theo sách “Lịch sử – văn hóa Quốc Oai” (NXB Lao Động, 2010), trang 207, chùa Thiên Phúc được xây dựng vào năm 1057 và mang tên “Thiên Phúc tự”. Từ Đạo Hạnh tu luyện tại đây vào cuối thế kỷ XI. Sau khi ông mất vào năm 1117, chùa mang tên chùa Thầy để tôn kính ông. Cả làng, tổng và núi đều gắn liền với tên Thầy từ đó.
Sự nổi tiếng của Từ Đạo Hạnh – được tôn vinh như một thánh, một phật và một vua – được bao phủ bởi hàng loạt huyền thoại, nhưng bản chất vẫn là những giá trị gần gũi với con người, mang tính nhân đạo.
Cao tăng – nhà thơ Từ Đạo Hạnh.
Sau khi trưởng thành, Từ Đạo Hạnh đã đi khắp nơi để học đạo. Nghe tin về đại sư Kiều Trí Huyền (còn được gọi là Kiều Tứ Huyền hay Cao Trí Huyền) nổi danh tại Thái Bình, ông đã tới để xin tham vấn. Các câu hỏi của ông được ghi trong bài kệ “Vấn Kiều Trí Huyền”: “Cánh cửa của hỗn độn thế gian làm sao để mở ra/ Không biết được chân tâm là gì/ Mặt trăng sáng rực chỉ ra con đường/ Nhìn những chiếc lá rụng, tôi cảm thấy đau khổ”.
Đại sư Cao Trí Huyền đã đáp lại ông bằng một bài kệ: ”Ngọc lí bí thanh diễn diệu âm/ Cá trung mãn lục lộ thiền tâm/ Hà Sa cách thị Bồ đề tạo/ Nghị hướng Bồ đề cách vạn tầm” (”Minh ngọc vang đưa tiếng ảo huyền/ Ở trong vẫn lộ tấm lòng thiền/ Cát sông là cõi Bồ đề đó/ Mà tưởng còn xa mấy dặm nghìn” – phiên dịch của nhà văn Ngô Tất Tố, 1894 – 1954).
Từ Đạo Hạnh đã đến chùa Pháp Vân để hỏi thiền sư Sùng Phạm về chân tâm nhưng thiền sư đã trả lời rằng chân tâm có ở mọi nơi, như đói khát hay ăn uống. Hiểu chân tâm chỉ có thể thực hành trực tiếp và đạt được bằng cuộc sống của một bậc chân tu. Sau đó, ông trở về chùa Thiên Phúc để tiếp tục tu luyện và đạt đến độ ung dung tự tại. Chân lý mà ông nhận được là: “Phật tại tâm”.
Bên cạnh câu chuyện kể trên, ông còn có ba bài thơ: “Có hay không”, “Bảy viên ngọc rồng” và “Tuyên bố đến khán giả”. Những bài thơ này miêu tả về những điều kỳ diệu của đạo Phật được thể hiện dưới dạng thơ cao cấp.
Từ Đạo Hạnh là một vị thiền sư vĩ đại, được tôn kính bởi mọi người. Ông đã đặt nền móng cho giáo lý Phật học dân gian đặc trưng của người Việt và cũng đã khởi đầu cho môn phái Mật Tông kết hợp giữa Phật giáo và Đạo giáo, tu phật rồi tu tiên. Nếu tính đến hậu thân của ông là vua Lý Thần Tông, ông có thể coi là một vị vua. Vì vậy, ông đại diện cho ba quyền lực tối cao: Thánh, Phật và Vua, đúng như Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1528-1613) đã viết trong đôi câu đối treo ở chùa Thượng: “Là thánh, là Phật, là vua, có ba thân vẫn còn lưu lại dấu tích/ Có hồ, có động, có Thiên Thị, giang sơn một dải đại diện cho cảnh quan kỳ vĩ”.
Nghệ thuật chèo đã hình thành từ thời Đinh (thế kỷ X) và phát triển không ngừng qua các thời Lý – Trần (thế kỷ XI – XIV) để tương đối hoàn chỉnh vào thời Lê (thế kỷ XV) do ông tổ nghề chèo Nghệ đã đóng góp. Khi Từ Đạo Hạnh sinh ra, nghệ thuật chèo đã tồn tại hơn 1 thế kỷ nhưng vẫn còn rất đơn giản. Thường ngày, Từ Đạo Hạnh cùng bạn bè xem diễn trò, tập thổi sáo, đánh trống và diễn lại các tích trò. Từ chỗ bắt chước và lệ thuộc, ông đã tạo ra các trò mới và cùng các bạn tập diễn, sau đó phổ biến lại cho các gánh trò. Ông chú trọng tìm cách phát triển nghệ thuật diễn xuất độc đáo của chèo.
Lúc đó, các diễn viên sử dụng những từ ngữ phổ biến để diễn tả cảm xúc, do đó, các kịch bản được lưu giữ bằng cách truyền miệng và dần bị mất đi vì không có phương tiện để lưu giữ. Từ Đạo Hạnh đã nhận thấy vấn đề này và đã là người đầu tiên viết ra các kịch bản. Cho đến ngày nay, các tác phẩm kịch của ông vẫn được truyền lại: “Trình (Chiềng) làng trình (chiềng) chạ/ Thượng hạ tây đông/ Tư cảnh hòa trung/ Nghe tôi giáo trống/ Trường không phong động/ Cũng bởi trống tôi/ Làng đã vào ngồi/ Tôi xin giải thích”.
Hầu hết các truyện cổ tích được soạn đều là những câu chuyện về đạo đức như câu chuyện về người tu nhân tích đức được thưởng phúc từ trời cao; những nhà sư khổ luyện đạt được đạo thành phật… Tư tưởng chủ đạo hiển hiện trong các truyện cổ tích là khuyến khích hành động tốt, trừng trị những kẻ xấu.
Sau các nghệ nhân Phạm Thị Trân (925 – 976), Đào Văn Só (951 – 975) và đồng thời với nghệ nhân Sai Ất (? – ?), Thiền sư Từ Đạo Hạnh được coi là một trong những ông tổ của nghề chèo. Ông đã đưa nghệ thuật chèo tiến lên một bước phát triển mới, hình thành phong cách riêng biệt cho loại hình nghệ thuật này. Ông cũng là người đào tạo ra những nghệ sĩ chuyên nghiệp đầu tiên, chuyên hát chèo và diễn tích. Đóng góp của thiền sư Từ Đạo Hạnh cho nghệ thuật chèo rất lớn, giúp bồi đắp và phát triển truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Trả lời