Nhiệm vụ của Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là Thanh tra, giám sát nhân gian.
Chuyện kể về Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Sử sách về Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Theo Lời Phật tìm hiểu, có một số câu chuyện về nguồn gốc của ông, bao gồm việc đến các đền thờ Đạo mẫu, đền thờ Ông và các bài Văn chầu. Một câu chuyện phổ biến là ông được sinh ra tại đền Đồng Bằng thờ Vua cha Bát Hải động đình. Ông là con trai thứ năm của một gia đình lái đò trên sông Vĩnh, phủ Ninh Giang (nay thuộc Hải Dương) vào thời Hùng Triều Thập Bát (Hùng Duệ vương). Dù ông đã già nhưng vẫn chưa có con cháu để thừa kế nghề lái đò. Một lần, ông và bà bắt được một con rắn trứng trắng và mang về nhà. Sau 9 tháng, vào một ngày mưa giông, 9 con rắn ra đời và lớn dần theo thời gian.
Trong những năm đó, đất nước đang chịu sự xâm lược của giặc. Vua Hùng đã tổ chức các nghi lễ để cầu sự giúp đỡ của Thần linh và đã sai các sứ giả đi tìm người tài giỏi để huấn luyện binh lính. Khi nghe tiếng loa truyền, 9 con rắn đã biến thành 9 chàng trai và đến yết kiến vua Hùng, mong được tham gia vào cuộc chiến chống lại quân giặc. Với sự giúp đỡ của nhau, họ đã đánh bại giặc chỉ trong một ngày và trả lại sự bình yên cho đất nước. Vua Hùng đã phong 9 chàng trai làm 9 ông Hoàng và sau đó họ đã trở thành 9 con rắn và trở về sông Tam Kỳ. Dân làng đã xây 9 ngôi đền để tôn vinh các anh hùng đã giúp đỡ vua Hùng trong cuộc chiến chống lại giặc, từ bến đò Tranh đến cửa biển Diêm Điền và đền Đồng Bằng. Đền Trấn Tam Kỳ giang linh ứng, Vĩnh Công đại vương, Bát Hải động đình được gọi là vua cha Bát Hải.
Sự bất công của cuộc tranh đấu của Quan Đệ Ngũ Tuần
Một truyền thuyết khác kể rằng: Ông là con trai thứ năm của vua cha Bát hải Động đình. Ông là một tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Ông đã đạt được nhiều thành tựu lớn nên được phong là Công hầu. Ông có tình cảm với một cô gái xinh đẹp là vợ của một viên quan, nhưng lại không hạnh phúc với cuộc sống vợ chồng, và cô gái cũng đáp lại tình cảm của ông mà không nói rõ ràng rằng cô đã có chồng. Ông tin rằng đó là một tình cảm đẹp, và hẹn ngày đưa cô về làm vợ. Nhưng khi viên quan kia biết chuyện, đã tố ông quyến rũ vợ mình. Ông bị oan uổng và bị đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn. Tại đây, để chứng minh sự vô tội của mình, ông nhảy xuống dòng sông Kì Cùng mong rửa oan. Hồn ông trở lại quê nhà và trở thành đôi bạch xà. Sau đó, một ông bà lão nông bắt được đôi bạch xà và nuôi chúng như con của mình. Khi viên quan phủ biết chuyện, ông bắt ông bà phải chịu trách nhiệm và đòi giết chết đôi bạch xà. Nhưng hai ông bà đã thương xót và xin thả đôi bạch xà xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả chúng xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội.
Đến thời kỳ của Thục Phán An Dương Vương, vua đã tập hợp thuyền bè để chống lại Nam Việt tại bến sông Tranh. Tuy nhiên, tại dòng xoáy đó, thuyền bè không thể vượt qua và cơn giông tố cũng bắt đầu nổi lên. Vua đã mời các lão làng đến lập đàn cầu đảo và kỳ lạ là sóng yên bể lặng, quân sĩ ra trận cũng thắng lợi. Vì công đức này, vua Thục đã giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau đó, ông còn được hiển thánh linh ứng, có khả năng nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà và dẹp hết những kẻ hại nước hại dân.

Trong Đạo mẫu, Tam phủ, Tứ phủ, Phụ Vương Đại Thánh Lạc Long Quân được phân công quản lý Thủy phủ (Thoải Phủ) với tư cách là vua cha, còn được gọi là vua cha Bát hải Long vương (Thoải Phủ) hoặc Bát hải Động đình vương (Hồ Động Đình ở sông Dương Tử, hiện thuộc Trung Quốc). Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh là con trai của vua Lạc Long quân.
Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một quan to đến từng tế, được mọi người tôn trọng và kính nể.
Quan Tuần Tranh có cư trú ở đồng không?
Trong các lễ Mẫu – Tam tứ phủ, Ông Lớn Tuần Tranh luôn thể hiện sự trang trọng bằng cách giáng ngự đồng. Khi mặc áo lam thêu rồng, hổ phù, ông thực hiện các nghi thức như tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn và múa thanh long đao. Nếu có đại đàn mở phủ hay bất kỳ lễ tiệc nào, các quan lớn phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ đến để chứng nhận cho tất cả các đàn mã sớ trạng trước khi được đem đi hoá.
Đền thờ Quan Ngũ Tuần Tranh
Quan Tuần Tranh được thờ tại nhiều địa điểm, bao gồm đền Tranh – Hải Dương và đền Kì Cùng – Lạng Sơn trong các đền, phủ, điện mẫu – Tam Tứ phủ. Đền Ninh Giang được xây dựng bên bến sông Tranh tại xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại trong thời kỳ của các triều đại Lê và Nguyễn, hiện nay thuộc thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Đây là nơi quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh và cũng là nơi ông hiển tích. Đền Kì Cùng được xây dựng bên bến sông Kì Cùng tại xã Vĩnh Trại – Châu Thoát Lãng, hiện nay thuộc thành phố Lạng Sơn. Cầu Kì Lừa là nơi ông bị lưu đày.

Ngày lễ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Lễ hội đền Tranh được tổ chức từ ngày 10 đến 20/2 để đón ngày Đản sinh (ngày 14/02 Âm lịch) và từ ngày 20 đến 26/5 để kỷ niệm ngày ông bị lưu đày và người dân địa phương tổ chức giỗ ông.
Tác phẩm Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Đệ tử con khấu đầu cung thủ.
Tiến văn chầu đệ ngũ tuần tranh.
Uy gia lẫm liệt tung hoành.
Trừ tà sát quỷ lên danh tướng tài.
Việt sử chép Hùng triều thập bát.
Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu.
Dựng nền xã tắc dài lâu.
Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn.
Vừa gặp hội bể yên sóng lặng.
Triệu bách thần gia tặng phong công.
Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng.
Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu.
Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ.
Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh.
Bao phen đắp luỹ xây thành.
Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng.
Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh,.
Non nước còn ghi trận tung hoành,.
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,.
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
Ai về qua bến sông Tranh,.
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,.
Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
Loa đồng hỏi nước sông Tranh,.
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,.
Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang.
Tài cung kiếm sánh cùng võ tử.
Đức kinh luân ví tựa Trương Tô.
Phong lưu mã thượng giang hồ.
Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông.
Chí đã quyết ngoài vòng cương toả.
Hay đâu là duyên nợ ba sinh.
Buồng xuân thiếu bạn chung tình.
Thoả lòng tráng sĩ tài anh phỉ nguyền.
Thề non nước nên duyên kì ngộ.
Bỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiên.
Tin đâu khẩn cấp ban truyền.
Quan quân tầm nã khắp miền sông tranh.
Có ngờ đâu đất trời thay đổi,.
Người anh hùng cổ nặng xiềng gông.
Ngài bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng.
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.
Trước cung điện, triều đình tra xét,.
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Ngài oan vì ong bướm lả lơi,.
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
Lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,.
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Hoàng bào đã nhuôm chàm xanh.
Tấm thân đành nhục vinh lẽ thường.
Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ.
Hỏi trăng già có tỏ cho ai.
Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời.
Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu.
Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,.
Vẫn vươn mình há ngại phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,.
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng.
Thà thác vinh còn hơn sống nhục,.
Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn.
Kiệt cùng hiu hắt trăng non.
Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng.
Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt.
Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong.
Lòng riêng đã quyết với lòng.
Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời.
Rừng hoa cỏ thương người đã khuất.
Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa.
Nỗi oan chuyển động đất trời.
Dây oan kia biến thành đôi bạch xà.
Đất Ninh Giang tìm nhà có phúc.
Thử lòng người trong lúc lánh thân.
Tháng hai vừa tiết trung tuần.
Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay.
Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ.
Đôi bạch xà tựa cửa hai bên.
Long xà kì dị thảo hiền.
Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà.
Ba tháng sau đàn gà đã hết.
Thương rắn hiền không biết lo sao.
Khó Khăn âu cũng tính liều.
Ông bà nông lão sớm chiều đông tây.
Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi.
Hai ông bà mắc tội cửa công.
Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng.
Tậu gà nuôi rắn không dung tội này.
Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể.
Thương rắn thần tựa thể thương con.
Khấu đầu tạ trước công môn.
Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng.
Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy.
Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông.
Long xà thoát xuống thuỷ cung.
Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan.
Khắp duyên hải sấm ran từ đấy.
Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi.
Những phường bán nước hại nòi.
Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha.
Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc.
Tội gia hình bõ lúc sai ngoa.
Lẽ thường tội báo oan gia.
Hại nhân nhân hại sự đà không sai.
Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,.
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,.
Triều đình ra lệnh tiến binh,.
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.
Bỗng nổi trận phong lôi bão táp.
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh.
Hỏi ra mới biết sự tình.
Thiết bày hương án lễ trình bên sông.
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm.
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên.
Uy linh sự đã hiển nhiên.
Lệnh truyền dân xã lập đèn bên sông.
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,.
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,.
Bảng vàng thánh thọ vô cương.
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,.
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,.
Bao phen đắp luỹ xây thành,.
Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.
Trả lời